Thế là ở độ tuổi mà hầu hết mọi người bằng lòng sống trong cái bóng của quá khứ, người bán hàng vĩ đại nhất thế giới lại dấn thân vào con đường mới.
Bài diễn văn đầu tiên của ông được trình bày trong một hội trường ẩm mốc ở vùng ngoại ô Caesarea Philippi với chưa đầy một trăm khán giả. Sau đó, trong bữa ăn khuya tại một điểm dừng chân cho thương lái gần đó, Hafid cùng hai người bạn đồng hành điểm lại buổi diễn thuyết đầu tiên này.
– Thông điệp của ngài, – Galenus nói, – vừa mạnh mẽ vừa đơn giản, và tôi đoan chắc rằng các nguyên tắc mà ngài đưa ra rất có giá trị với tất cả những người đến tham dự, dù cho hoàn cảnh của họ như thế nào. Và dĩ nhiên, không một ai, trên bất kỳ bục giảng nào, có thể phát biểu với cương vị của ngài, bởi vì chẳng có ai ở thời đại này đạt được thành công như ngài! Con tim tôi rung lên với cảm giác hồi hộp mong chờ những lần xuất hiện sau này của ngài tại các thành phố lớn như Rôma và Jerusalem. Ngài sẽ phải phát biểu suốt nhiều buổi tối, bất kể diễn đàn lớn nhỏ, trước khi chúng ta làm hài lòng được những đám đông khổng lồ, những người sẽ tập hợp lại để học hỏi kinh nghiệm từ một bậc thầy. Thật là một viễn cảnh đáng mong đợi!
Hafid đẩy chiếc dĩa của mình sang một bên, khuôn mặt nghiêm nghị nói:
– Galenus à, làm ơn rút lại những lời khen ngợi đó và để dành chúng đến khi tôi thật sự xứng đáng. Còn bây giờ, hãy cho ta biết cách cải thiện phần trình bày kém cỏi của mình tối hôm nay.
– Đây mới là buổi diễn thuyết đầu tiên của ngài thôi, thưa ngài Hafid, nên ngài không cần phải nghiêm khắc thái quá với bản thân. Nghệ thuật hùng biện không phải là một kỹ năng có thể tinh thông dễ dàng một sớm một chiều. Tối nay, tôi nhận thấy ngài đã quên mất vài ba ý ngài vốn đã dự định đưa vào bài diễn thuyết, nhưng ngài vẫn bình thản tiếp tục, đến mức tôi ngờ rằng chẳng ai trong phòng nhận ra thiếu sót của ngài. Tôi cũng nghĩ có lẽ ngài nên cân nhắc đến việc di chuyển nhiều hơn trong suốt quá trình diễn thuyết. Thi thoảng hãy bước đến gần phía khán giả, đứng lại, sau đó thì xoay người và bước đi khỏi chỗ họ mà không nói thêm gì cả. Ngài hãy nhớ rằng muốn là một diễn giả giỏi, trước hết ngài phải là một diễn viên giỏi. Hãy ra hiệu bằng tay mỗi khi ngài muốn nhấn mạnh một ý nào đó, và đồng thời ngài cũng nên lên giọng và xuống giọng. Điều quan trọng nhất là ngài hãy cố gắng nhìn vào mắt khán giả càng nhiều càng tốt, mỗi lúc một người, cứ như thể ngài đang có một cuộc đối thoại riêng tư với từng người, bất kể khoảng cách giữa hai người là bao nhiêu.
Hafid buồn bã lắc đầu.
– Ta còn phải học nhiều lắm.
Galenus vỗ lên tay ông, an ủi:
– Hãy kiên nhẫn, thưa ngài, thật kiên nhẫn. Tôi biết ngài trở thành người bán hàng giỏi nhất thế giới không phải chỉ trong một ngày. Tôi đã dõi theo hàng trăm nhà diễn thuyết khác nhau suốt nhiều năm trời, và tôi phải nói rằng tối nay tôi đã vô cùng kinh ngạc trước phong thái đĩnh đạc và bình tĩnh của ngài. Nhưng xét lại thì, lẽ ra tôi chẳng có gì phải ngạc nhiên cả. Sau tất cả những thử thách mà ngài đã gặp phải và vượt qua trong đời, tối nay chắc chắn chỉ là một mối bận tâm cỏn con với ngài.
– Ngược lại là khác, – Hafid thở dài, – ta không chắc thông điệp của mình có giá trị với những người đó hay không. Họ dường như chẳng mảy may xúc động trước lời nói của ta và có rất ít người vỗ tay sau khi ta kết thúc.
– Sẽ đến lúc đó thôi, thưa ngài, – Erasmus quả quyết, – rồi sẽ đến lúc đó.
Nhưng điều đó đã không đến, dẫu là ở Bethsaida, Chorazin hay Capernaum. Không một nơi nào Hafid có thể truyền lửa cho khán giả của mình.
Lần xuất hiện cuối cùng theo lịch trình của ông trong chuyến lưu diễn đầu tiên này là tại một ngôi làng trên sườn đồi ở Nazareth. Và bởi đây là giao lộ của hai tuyến đường quân sự và thương mại, Galenus cũng như những phụ tá đã cố gắng tập trung được gần ba trăm người tại phòng ăn của nhà trọ duy nhất trong thị trấn.
Nhiều năm về sau, Hafid đã nhanh chóng thừa nhận rằng quyết định diễn thuyết ở Nazareth có ảnh hưởng rất lớn đến những năm còn lại trong cuộc đời ông. Sau buổi tối đáng tiếc ở Capernaum, khi ông chắc rằng mình đã thất bại trước những khán giả là ngư dân và thương gia, ông suýt chút nữa thì hủy bỏ điểm dừng cuối cùng trong lịch trình và quay trở về Damascus. Nhưng thói quen không bao giờ bỏ cuộc trong bất kỳ việc gì và việc ông không thể nói ra ba chữ “Tôi bỏ cuộc” đã buộc ông tiến đến Nazareth.
Mặc dù cách truyền tải của Hafid đã dần cải thiện qua từng buổi diễn thuyết, nhưng bản thân bài nói ở Nazareth lại chẳng có gì đáng nhớ. Tuy nhiên, ở hàng ghế thứ hai có một người đang ngồi chăm chú lắng nghe từng câu từng lời của ông. Đó là một người bạn cũ đáng kính: ngài Sergius Paulus, vị tổng trấn La Mã lâu năm của hòn đảo Cyprus. Suốt bài diễn thuyết, vị tổng trấn ấy luôn mỉm cười và gật đầu khích lệ ông, và còn đứng lên vỗ tay thật lớn ngay sau khi phần trình bày của Hafid kết thúc.
Sau khi Hafid giải đáp câu hỏi cuối cùng từ khán giả, hai người bạn cũ tay bắt mặt mừng rồi cùng nhau bước lên cầu thang của nhà trọ, theo sau là Galenus và Erasmus. Sergius thắp ngọn đèn dầu trong căn phòng tối lên trước khi ra hiệu cho những vị khách của mình bước vào.
– Nơi này đúng là chẳng thể sánh được với bất kỳ căn phòng nào trong cung điện của tôi ở Paphos, – ông mỉm cười ôm lấy Hafid lần nữa, – nhưng mà được nhìn thấy ông, người bán hàng vĩ đại, cùng với người bạn đáng tin cậy Erasmus đây, đã là quá đủ xa xỉ với tôi rồi. Đã bao lâu rồi ấy nhỉ? – Ông vừa hỏi vừa rót rượu từ chiếc túi da vào bốn chiếc cốc.
– Gần hai mươi năm, thưa tổng trấn, ấy vậy mà ngài không hề già thêm ngày nào.
– À ha, ngay cả người bán hàng vĩ đại nhất đôi khi cũng bẻ cong sự thật.
Sergius đáp lời, và trong khi họ nhâm nhi rượu, Erasmus kể lại cho Galenus nghe chi tiết về những năm giao thương vui vẻ và sinh lợi giữa đoàn buôn của Hafid và người dân ở Cyprus.
Cuối cùng, Hafid cũng lên tiếng đặt câu hỏi đã xuất hiện trong tâm trí ông kể từ giây phút ông thoáng nhìn thấy Sergius dưới hàng ghế khán giả. Ngài tổng trấn đáng kính của đảo Cyprus đang làm gì ở một nơi cách xa lãnh thổ của ông như thế này, và tại sao ông lại có mặt ở một ngôi làng nhỏ hoang vắng như Nazareth?
– Có thể nói tôi ở đây là do ông đấy, Hafid à. Cái tên Saul hay Paul vùng Tarsus có gợi lên ý nghĩa gì với ông không?
– Tất nhiên rồi. Đấy là một người truyền giáo nhỏ bé rất có tiếng nói. Khi đó ông ta đang cố gắng truyền bá một tôn giáo mới đến quần chúng, dựa trên những bài giảng của một người đàn ông tên là Jesus, người đã bị Pontius Pilate1 đóng đinh vào thập tự vì nổi dậy chống lại La Mã. Tôi gặp Paul khi mọi người quay lưng lại với ông ta và mạng sống của ông ta đang gặp nguy hiểm. Theo lời ông ấy kể, ông ấy tìm đến tôi sau khi nghe thấy một giọng nói lúc đang cầu nguyện trong đền thờ người Do Thái ở Jerusalem. Giọng nói ấy bảo rằng nếu ông ấy muốn bán được niềm tin của mình cho người khác, ông nên học cách làm điều đó từ người bán hàng vĩ đại nhất thế giới.
1 Pontius Pilate là tổng trấn xứ Judaea từ năm 26 đến năm 36 sau Công nguyên, dưới thời hoàng đế La Mã Tiberius.
– Và ông đã đồng ý giúp ông ta?
– Đúng vậy.
Sergius gật đầu và mỉm cười.
– Chắc hẳn ông đã hướng dẫn ông ta một cách rất xuất sắc. Paul đã có dũng khí đi đến Cyprus và yêu cầu được diện kiến tôi, dựa vào tình bằng hữu giữa ông và ông ta. Hai ngày sau, ông ta đã thuyết phục được tôi thay đổi tôn giáo. Tôi đã là con chiên của Chúa Jesus kể từ dạo ấy.
– Ngài ư? Một người La Mã sao?
– Đúng thế. Theo tôi biết thì có lẽ tôi là người đầu tiên. Chẳng phải người đàn ông nhỏ bé ấy đã không cố gắng cải đạo ông sau khi ông cho ông ta những lời khuyên quý giá để bán ý tưởng dễ như bán hàng sao?
– Không. Ông ấy lên đường ngay tối hôm ấy và kể từ đó, chúng tôi chưa từng gặp lại nhau, mặc dù suốt những năm qua, ông ấy cũng thường xuyên viết thư cho tôi. Nhưng ngài vẫn chưa giải thích cho tôi biết, hỡi Sergius, hà cớ gì ngài lại có mặt ở nơi bị Thượng Đế ruồng bỏ này.
Ngài tổng trấn cười.
– Bị ruồng bỏ à? Không đâu. Cuối cùng tôi đã nhận ra rằng cuộc sống của mình đã gần đến hồi kết, và tôi muốn bước theo bước chân của Chúa Jesus ở Palestine này trước khi lìa đời. Tôi đã nhường lại việc cai trị Cyprus cho những người có năng lực và thực hiện một chuyến nghỉ phép kéo dài ba tháng để có thể nhìn thấy tận mắt thế giới nơi Chúa Jesus đã sống và tiếp xúc với thật nhiều mảnh đời.
– Nhưng Nazareth thì có ý nghĩa gì?
– Thời thanh niên, Chúa Jesus đã sống ở đây, và Ngài cũng trưởng thành ở đây, phụ giúp cha mình trong một xưởng mộc nhỏ…
– Nhưng Ngài ấy không sinh ra ở đây. – Hafid ngắt lời.
Sergius ngạc nhiên đến tái mặt:
– Làm sao ông biết điều đó khi ông không phải là một tín đồ?
– Vì tôi đã ở cùng với Jesus không lâu sau khi Ngài ấy chào đời, trong một cái hang lừa ở Bethlehem.
Bàng hoàng trước những gì mình vừa nghe, Sergius che cả hai tay lên miệng và chờ đợi Hafid tiếp tục.
– Tôi từng là cậu nhóc chăn lạc đà thuộc đoàn thương buôn vĩ đại của Pathros, nhưng khi đó tôi đã trải qua ba ngày hết sức khó khăn ở Bethlehem, cố gắng bán chiếc áo choàng đỏ không đường may mà Pathros đã giao cho tôi như một thử thách để tôi chứng tỏ rằng mình nên được thăng chức từ một cậu bé chăn lạc đà lên thành người bán hàng. Đến tối ngày thứ ba, sau hàng trăm lời rao bán thất bại, tôi ăn một ít bánh mì trong khu nhà trọ và rồi vòng ra phía sau tòa nhà ấy, tiến đến cái hang nơi tôi buộc con lừa của mình. Vì trời lạnh nên tôi quyết định ngủ trên đống cỏ khô, kế bên chú lừa yêu quý của mình, thay vì ngủ trên triền đồi.
Tôi định là sau một giấc ngủ thật ngon, tôi sẽ sẵn sàng để sáng hôm sau dồn hết nỗ lực cuối cùng nhằm bán được chiếc áo choàng, và tôi chắc chắn rốt cuộc mình sẽ thành công. Nhưng khi bước vào hang, tôi bắt gặp một đôi nam nữ trẻ tuổi đang ngồi bên một ngọn nến và ở dưới chân họ là chiếc máng đựng cỏ khô cho gia súc. Trong cái máng ấy là một đứa trẻ sơ sinh đang say giấc trên những cọng rơm, và tôi thấy đứa bé không có gì để chống lại cái lạnh ngoại trừ tấm áo choàng rách bươm mà cha mẹ đắp cho nó.
– Ông đã làm gì?
Hafid siết chặt hai bàn tay và hít vào thật sâu.
– Tôi băn khoăn suy nghĩ trong một lúc, tưởng tượng tất cả những hậu quả nặng nề khi trở về đoàn buôn mà không có cái áo choàng, hay tiền bán được nó. Cuối cùng, tôi lấy cái áo choàng xuống khỏi lưng lừa và cẩn thận bọc quanh đứa bé sau khi trả lại tấm áo sờn rách cho người cha và người mẹ đang kinh ngạc. Ngài biết đấy, Sergius, đã gần năm mươi năm trôi qua, thế mà tôi như vẫn còn nghe rõ những tiếng nấc thổn thức vì biết ơn của người mẹ trẻ xinh đẹp ấy khi bà bước đến gần và hôn lên má tôi.
Hafid đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại với hai tay đặt sau lưng, trong khi ba người còn lại lắng nghe chăm chú.
– Tôi cưỡi lừa quay lại đoàn buôn như một đứa trẻ tuyệt vọng. Tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ, và lúc đó tôi đã chắc chắn mình sẽ là thằng dọn phân lạc đà cả đời. Đầu gục xuống trong cảm giác thất bại hoàn toàn, tôi thậm chí không nhận thấy một ngôi sao sáng đã theo tôi suốt quãng đường từ Bethlehem trở về nơi đoàn buôn hạ trại. Nhưng ông chủ tôi, ngài Pathros, thì có. Mặc dù trời đã muộn, ngài vẫn đứng ở rìa dãy lều trại đợi tôi về, ngài chỉ tay lên bầu trời có ánh sao sáng rực và hỏi tôi đã làm điều phi thường gì. Tôi trả lời ngài ấy là tôi chẳng làm gì cả. Tuy nhiên, nhìn lên vì sao sáng, xem nó như là một tín hiệu đặc biệt từ Thượng Đế, ngài đã trao cho tôi mười cuộn bí kíp thành công mà tôi đã sử dụng, trong suốt những tháng ngày của mình, để đạt được nhiều điều tốt đẹp trong cuộc sống hơn bất kỳ người xứng đáng nào khác. Hơn thế nữa, Pathros đã ra lệnh cho tôi không chia sẻ những bí kíp này với bất cứ ai, cho đến khi nào tôi nhận được tín hiệu đặc biệt từ người tiếp theo nhận lấy những cuộn giấy ấy, dù cho người đó có thể sẽ không nhận ra rằng họ đang truyền đến cho tôi một tín hiệu.
Sergius mỉm cười.
– Và cuối cùng người nhận lấy những cuốn bí kíp từ ông chính là Paul?
– Đúng vậy, ba năm sau khi tôi giải thể đế chế thương mại của mình. Khi đó, tôi gần như đã mất hết hy vọng về việc truyền lại những bí kíp ấy cho đời sau rồi.
– Làm thế nào mà ông biết Paul chính là người sẽ thừa kế những cuộn giấy ấy? Tín hiệu đặc biệt là gì?
– Trong chiếc túi ông ấy đeo bên mình là tấm áo choàng đỏ không đường may, mà theo ngài vừa nói đó là chiếc áo yêu thích của Jesus, và Ngài ấy đã mặc nó trong suốt cuộc đời mình. Trên áo là những vệt máu khô sẫm màu từ những trận đòn roi mà Jesus phải chịu đựng trước khi bị đóng đinh. Tôi càng kinh ngạc hơn khi nhìn thấy ở mép áo là dấu hiệu quen thuộc của phường hội đã sản xuất những chiếc áo choàng được ưa chuộng này cho Pathros, và tôi cũng tìm thấy dấu hiệu của Pathros: một hình tròn nằm trong hình vuông. Vẫn chưa dám chắc về vật mà mình đang cầm trên tay, tôi hỏi Paul liệu ông có biết gì về hoàn cảnh lúc Jesus chào đời hay không. Và rồi ông ấy thuật lại cho tôi rằng Jesus được sinh ra trong một cái hang lừa ở Bethlehem, và tỏa sáng trên bầu trời đêm lúc ấy là ngôi sao rực rỡ nhất mà loài người từng nhìn thấy. Khi ấy tôi đã biết rằng tấm áo choàng trong tay Paul cũng chính là tấm áo choàng mà tôi đã bọc quanh hình hài bé nhỏ của Jesus vào cái đêm định mệnh ấy. Đó là tất cả những dấu hiệu tôi cần. Erasmus, người hiện diện trong cuộc gặp mặt giữa tôi và Paul, đã đi đến tòa tháp trong lâu đài, nơi tôi cất giữ các bí kíp thành công và chúng tôi đã trao nó cho Paul với tất cả tình yêu thương.
– Tri thức trong những cuộn giấy đó hẳn phải đầy sức mạnh. – Sergius nói. – Các đại diện của tôi báo lại rằng Paul đã thành công khi thuyết phục được nhiều người theo đạo ở các thành phố như Pisidia, Lycaonia, Perga, Antioch, Iconium, Lystra, và vô số nơi khác.
– Tôi không ngạc nhiên. – Hafid đáp.
Sergius uống cạn cốc rượu và hỏi:
– Tiếp theo ông sẽ diễn thuyết ở đâu?
– Theo kế hoạch hiện tại thì không còn buổi nào nữa cả. Ngày mai, ba người chúng tôi sẽ quay trở lại Damascus, mấy hôm nữa chúng tôi sẽ họp lại và cố gắng đưa ra đánh giá về toàn bộ trải nghiệm diễn thuyết này trước khi quyết định xem liệu có tương lai nào cho tôi trong việc đứng trên bục diễn thuyết, nỗ lực tác động đến cuộc sống của người khác vì một thế giới tốt đẹp hơn hay không.
– Ông có sẵn lòng ở lại Nazareth thêm một ngày nữa không, nếu tôi cho ông một lý do đủ sức thuyết phục?
Hafid quan sát gương mặt nhăn nheo của bạn mình một lúc lâu trước khi gật đầu đồng ý. Vị tổng trấn già nắm lấy hai bàn tay Hafid rồi nói:
– Hỡi người bán hàng vĩ đại, sáng ngày mai ông sẽ một lần nữa gặp lại người phụ nữ đã hôn lên má cậu bé chăn lạc đà trong cái hang lừa ấy nhiều năm về trước!