Hai người bạn cũ gặp nhau vào sáng ngày hôm sau tại giếng nước duy nhất ở Nazareth, giữa một khoảng trống bên lề con đường chính, gần trung tâm thị trấn. Bụi bay mù mịt trong không trung, kèm theo tiếng khàn khàn la hét, tiếng cười khóc từ một hàng dài phụ nữ và trẻ em đang chờ đến lượt mình lấy nước, đổ đầy mấy chiếc bình, vại từ cái máng.
Hafid thích thú theo dõi một đoàn buôn lớn dừng lại gần nguồn nước và vài cậu bé chăn lạc đà hứng đầy nước vào những thùng to bằng đá hết lần này đến lần khác, cho đến khi những con vật khát nước no nê.
Sergius khẽ huých bạn mình:
– Có phải đó từng là việc của ông khi còn ở trong đoàn buôn của Pathros?
– Có thể gọi nó là một trong những nhiệm vụ nhẹ nhàng của tôi thì đúng hơn. – Hafid mỉm cười khi những con vật bốc mùi di chuyển nặng nề ngang qua ông trên con đường đá nhỏ hẹp.
Hai người đàn ông kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi có chỗ trống ở phía bể đá, rồi họ nhúng tay vốc nước mát lạnh lên để uống.
– Ngày nào Chúa Jesus cũng cùng mẹ mình đến đây. – Sergius nói với một sự sùng kính.
Hafid mỉm cười đồng cảm trước lối cư xử ngoan đạo của người bạn cũ với cái giếng công cộng, có phần dơ bẩn, cả người lẫn vật đều dùng chung.
– Ông ấy còn bước đi trên những hòn đá cuội này, hít thở bầu không khí này, và chơi đùa trên những cánh đồng kia nữa chứ. – Hafid đùa, nhưng Sergius không cười.
– Đúng thế, – vị tổng trấn ôn tồn nói, – Ngài đã dành ra gần ba mươi năm cuộc đời ở đây, làm theo nghề của cha mình, với nào cưa, búa, và những cái bào. Tôi đã mua một số đồ dùng trong nhà từ dân làng, những món mà họ nói là do chính tay Ngài làm nên. Khi trở về Cyprus, tôi sẽ ra lệnh chuẩn bị một căn phòng đặc biệt để cất giữ những thứ đó trong lâu đài của mình.
Họ đi mãi, đến gần một vùng nông thôn quạnh quẽ thì cuối cùng Sergius cũng dừng lại, chỉ về phía ngôi nhà đá vôi nhỏ vuông vức gần như bị che khuất bên dưới hai cây lựu.
– Chúa Jesus đã sống phần lớn cuộc đời mình ở đó. Xưởng mộc của Ngài chẳng có gì ngoài một căn phòng nhỏ ở sau nhà.
– Có lẽ chúng ta không nên làm phiền bà ấy. – Hafid nói khi Sergius vội vã bước dọc theo con đường phủ đầy cỏ dại cho đến khi họ đứng trước một cánh cửa mà rõ ràng là cần được sơn phết lại rất nhiều.
Vị tổng trấn vỗ nhẹ lên cánh tay Hafid, trấn an:
– Sẽ ổn cả thôi. Suốt tuần trước tôi đã đến thăm Mẹ Mary nhiều lần và chúng tôi đã trở thành bạn tốt của nhau. Sáng sớm nay tôi có cho người qua thông báo với bà rằng trong hôm nay tôi sẽ đưa ông đến.
Hafid hít vào thật sâu.
– Ngài đã gợi lại cho bà cuộc gặp gỡ thuở xa xưa giữa tôi và bà ở Bethlehem à?
– Ồ không đâu, như vậy sẽ làm hỏng sự bất ngờ mất. Tôi chỉ đơn thuần nhắn là tôi sẽ đưa một người bạn cũ đến. Sự xuất hiện của ông sẽ không làm bà ấy phiền lòng đâu. Bà nói với tôi rằng bà đã quen với việc có người lạ mặt đến thăm viếng rồi, phần lớn họ đều có ý tốt, muốn diện kiến và trò chuyện với mẹ của Chúa Jesus.
– Bà ấy sống một mình sao?
– Đúng vậy. Bà đã là góa phụ suốt nhiều năm, con cái bà đều đã mất hoặc sống ở nơi khác. Một người con trai là James thường xuyên về thăm bà, mặc dù giờ đây ông ấy rất bận rộn vì là người đứng đầu một nhà thờ mới thành lập ở Jerusalem.
Sergius chỉ mới gõ cửa hai lần thì cánh cửa nhẹ nhàng mở ra nhờ tấm bản lề bằng da.
– Nguyện bình yên đến với người, quý bà yêu mến của tôi. – Sergius nói khi ông nhẹ nhàng cầm lấy bàn tay người phụ nữ và đưa lên môi hôn khẽ.
– Và đến ngài nữa, Sergius. – Bà nói, mỉm cười ấm áp với Hafid khi ông được giới thiệu. Bà mời hai người đàn ông hai cốc sữa dê lớn cùng với phô mai và đặt một khay lớn những quả lựu và vả trong tầm tay khi cả ba trò chuyện về nhiều vấn đề liên quan đến ngôi làng. Hafid bị đôi mắt to và mái tóc gần như đen huyền của bà làm cho có chút mơ hồ, mặc dù ông chắc rằng bà phải hơn ông ít nhất mười tuổi.
Ngay cả giọng bà cũng không đúng tuổi.
– Tối qua ngài diễn thuyết ở khu nhà trọ à? – Bà hỏi, hơi nghiêng đầu về phía Hafid.
– Đúng là vậy, nhưng tôi cho là mình không thành công lắm.
– Sao ngài biết là không thành công?
– Khán giả chẳng phản ứng gì cả. Nếu ngài Sergius đây không vỗ tay đầu tiên, tôi ngờ rằng sẽ chẳng ai buồn làm điều đó.
Mary khẽ mỉm cười.
– Ít nhất họ cũng không đe dọa tính mạng ngài. Jesus chỉ phát biểu ở Nazareth này đúng một lần, trong giáo đường Do Thái khi đang cố gắng quyết định xem nên đi con đường nào sau bốn mươi ngày suy ngẫm trong hoang địa. Buổi sáng ngày lễ thánh1 đó, những lời Jesus nói khiến người ta tức giận đến mức họ bắt trói và đưa Ngài lên vách đá cao nhất. Thế nhưng trước khi họ kịp ném Ngài xuống những tảng đá bên dưới, Ngài đã kịp trốn thoát.
1 Ngày Sabbath: Theo Kinh Thánh Cựu Ước, Chúa Trời mất sáu ngày để tạo ra trời đất, sau đó Người dành ngày thứ bảy để nghỉ ngơi, vì vậy trong Mười điều răn của Chúa có đề cập đến ngày Sabbath là ngày mà các tín đồ phải nghỉ ngơi, không được lao tâm lao lực.
– Tôi không hề biết chuyện này. – Sergius kêu lên. – Đó là những người đã cùng lớn lên, chơi đùa và đến trường cùng Jesus sao?
– Chính là họ. – Mary trả lời. – Phần đông họ không hiểu được tại sao người bạn và cũng là hàng xóm của họ, một gã thợ mộc, đột nhiên lại nói chuyện như thể hắn được Thượng Đế ban cho quyền lực đặc biệt nào đó. Với họ, đây là sự báng bổ mà theo luật phải bị trừng phạt bằng cái chết.
– Và đó là buổi diễn thuyết trước công chúng đầu tiên của Ngài?
– Đúng vậy… và gần như suốt sáng hôm đó tôi đã tin rằng đó cũng sẽ là buổi cuối cùng.
Sergius xoay sang Hafid:
– Những chuyện này nên được lưu giữ, nhưng theo tôi biết thì vẫn chưa có ai ghi chép lại vào giấy cả. Thật đáng buồn.
Vị tổng trấn lại hướng về Mary. Hafid quan sát khung cảnh ấy với sự bồi hồi xúc động, bởi một trong những quan chức quyền thế bậc nhất của đế chế La Mã lại đang trò chuyện với người phụ nữ lớn tuổi chân chất bằng sự dịu dàng và tôn kính mà trước đây Hafid chưa bao giờ trông thấy ở Sergius.
– Chúa Jesus đã xử lý như thế nào với sự đón nhận và đối xử đáng sợ đó?
– Ngài đã gạt điều đó ra khỏi tâm trí và vẫn tiếp tục thuyết giáo, vào ngày lễ thánh tiếp theo, ở giáo đường Do Thái gần Capernaum. Người dân ở đó đón nhận Ngài với tình yêu thương và sự chú ý. Sau đó, khi chúng tôi trò chuyện về trải nghiệm kinh khủng ở Nazareth này, tôi nhớ Jesus chỉ cười và nói rằng lẽ ra Ngài nên biết không nhà tiên tri nào có được vinh quang ở chính quê hương mình.
Sergius ngả đầu ra sau và nhắm mắt lại.
– Những câu chuyện này phải được viết lại, nhất định phải được viết lại!
Hafid đợi đến khi Mary rót xong cốc sữa lạnh cho ông, sau đó ông hỏi:
– Từ những điều ít ỏi mà tôi biết về Jesus, tôi hiểu là ông ấy chưa bao giờ giảng đạo ở đâu ngoài Palestine. Là mẹ ông ấy, bà chắc hẳn đã có rất nhiều cơ hội lắng nghe tâm sự của con trai mình cùng những thông điệp của ông.
Mary gật đầu.
– Trong thời gian đầu, khi đang chiêu mộ và giảng dạy cho các tông đồ, tôi thường hay nghe Jesus diễn thuyết. Nhưng khi Tòa án Do Thái tối cao và các tổng trấn người La Mã bắt đầu cử gián điệp bí mật theo dõi hành động và lời nói của con trai tôi, Jesus liền khăng khăng bắt tôi quay về và ở lại đây, tránh xa khỏi vòng hiểm nguy. Nhiều lần, bất cứ khi nào Jesus cùng người của mình đi qua Nazareth, Jesus sẽ ngồi bên và nắm lấy tay tôi, giúp tôi chuẩn bị tinh thần cho những điều sẽ đến.
Mary cắn môi dưới, xoay mặt đi chỗ khác. Sergius liếc nhìn Hafid và gật đầu. Đến lúc rồi. Vị tổng trấn nhoài người về phía trước và nhẹ nhàng đặt tay lên vai người phụ nữ.
– Thưa bà, tôi có điều đặc biệt này muốn cho bà biết.
– Vâng, Sergius.
– Người bạn cũ Hafid của tôi cùng tôi đến đây hôm nay là vì ngài ấy vô cùng tha thiết được gặp lại bà.
– Gặp lại? – Mary cau mày, đầu nghiêng nghiêng, nói:
– Kể từ khi ông ấy bước qua cửa, tôi đã ngờ rằng mình biết người đàn ông này. Nhưng khi không thấy ai nói gì, tôi chỉ xem cảm giác đó như là một sự lú lẫn tuổi già. Trước đây chúng ta đã gặp nhau sao, hỡi người bán hàng vĩ đại?
– Chỉ một lần, và đã nhiều năm về trước rồi, bà Mary ạ.
Mẹ của Jesus kéo chiếc khăn choàng xuống quanh cổ và chồm người qua bàn về phía Hafid. Không nói lời nào, ông cũng nghiêng người gần hơn về phía bà và Mary vươn tay ra cho đến khi đôi tay ôm trọn gương mặt người đàn ông. Bà đưa ngón tay dọc theo đôi gò má ông và nói:
– Hẳn đó là trước khi bộ râu đẹp tuyệt này che phủ gương mặt ngài?
– Trước đó rất lâu.
Ngón cái bàn tay phải của Mary nhẹ nhàng vuốt ve một nếp nhăn hằn sâu ở trên cằm Hafid khi bà nhìn sâu vào đôi mắt màu xám mà giờ đây đã ươn ướt lệ của ông. Đột nhiên, bà xoay mặt về phía Sergius, miệng hơi hé mở, nước mắt rơi dài trên đôi gò má nhăn nheo và tay bà vẫn còn đặt trên mặt người bán hàng vĩ đại.
– Tôi biết ông ấy. – Bà nức nở. – Tôi đã cảm thấy điều gì đó đặc biệt trong phong thái của người này kể từ khoảnh khắc ông ấy bước qua cánh cửa này. Tôi biết ông ấy, Sergius à! Đây đúng là một phép màu khác nữa!
– Bà hãy nói xem ông ấy là ai? – Sergius mỉm cười trìu mến.
Mary kéo gương mặt Hafid lại gần và nhẹ nhàng hôn lên má ông.
– Ông ấy là thiên thần bé nhỏ trên lưng lừa của tôi. Trong một cái hang lừa ẩm thấp ở Bethlehem, vài giờ đồng hồ sau khi Jesus chào đời, một cậu bé đã bước ra từ bóng tối và bao bọc con tôi trong chiếc áo choàng màu đỏ. Sau đó, cậu rời đi trong đêm và tôi chưa bao giờ có cơ hội để nói lời cảm ơn.
Hafid đưa tay sờ lên má và nhỏ nhẹ nói.
– Bà có cảm ơn tôi. Lúc đó bà cũng hôn tôi, như lúc nãy vừa làm, và cuộc đời tôi đã đổi thay từ đêm hôm ấy.
– Và bây giờ, có lẽ nó sẽ thay đổi một lần nữa. – Bà nói khi đứng dậy và đi đến chiếc rương lớn ở sâu trong góc phòng. Bà lấy từ trong rương ra một chiếc túi da và khi quay trở lại bàn, bà đặt chiếc túi vào tay Hafid.
– Thứ này là của ông, người đàn ông đáng mến. Jesus chắc hẳn đã muốn ông giữ nó.
Trong khi Sergius Paulus lẳng lặng quỳ xuống cạnh chiếc ghế của bạn mình, Hafid từ từ rút ra khỏi túi chiếc áo choàng đỏ mà Jesus đã vô cùng yêu thích. Một lần nữa, ông cố gắng kìm nén những giọt nước mắt khi lấy tay nhè nhẹ sờ vào tấm vải đỏ mềm mại.
– Lần cuối cùng tôi nhìn thấy tấm áo choàng này là lúc Paul giữ nó. Ông ta kể rằng sau biết bao nỗ lực tìm kiếm ở Jerusalem, ông ta đã tìm thấy người chiến binh La Mã đã thắng được chiếc áo trong một cuộc chơi xúc xắc sau… sau khi… Jesus bị đóng đinh.
Mary gật đầu.
– Paul đã trả lại tấm áo choàng cho tôi nhiều năm trước. Những vết máu khô vương trên áo từ những trận đòn roi mà Jesus phải chịu đựng trước khi bọn chúng giết con tôi. Tôi đã ngâm nó trong thuốc giặt suốt nhiều giờ liền vì tôi không thể chịu đựng nổi khi nhìn thấy những dấu vết đó.
Hafid vẫn tiếp tục vuốt ve tấm áo.
– Thật là một kỹ thuật khéo léo khác thường! Hãy nhìn xem, màu sắc vẫn không hề phai đi và mối dệt chỉ bị bung sợi một chút sau hơn năm mươi năm! Thật tuyệt vời!
– Jesus mặc chiếc áo này trong bất cứ dịp nào, nhất là những khi xuất hiện trước những đám đông lớn. Ngài nói rằng bên cạnh những lời cầu nguyện, việc cảm nhận tấm áo choàng trên vai mang đến cho Ngài tất cả sự tự tin cần thiết để đương đầu với bất kỳ hoàn cảnh nào. Có lẽ, tấm áo sẽ mang đến điều tương tự cho ông. Có phải ông vừa nói đám đông tối qua chẳng mấy phản ứng trước lời nói của mình không?
Hafid xếp chiếc áo choàng lại và đưa nó cho Mary.
– Tôi không thể nhận món đồ vô giá này được. Nó nên được trưng bày ở một nơi thờ phụng tôn kính nào đó, cho cả thế giới nhìn thấy, chứ dứt khoát không thể khoác trên đôi vai không xứng đáng này của tôi.
– Làm ơn. – Mary nài nỉ, đặt bàn tay nhỏ bé của mình lên tay Hafid. – Hãy nhận lấy và mặc nó. Khi Jesus còn bé, tôi thường kể cho con nghe câu chuyện về một cậu bé đã đến không lâu sau khi Jesus ra đời, và tặng cho Ngài tấm áo choàng này để giữ ấm. Đó là cách hay nhất mà tôi biết để dạy cho Ngài về ý nghĩa đích thực của tình yêu thương: là cách một người cho đi tất cả những gì họ có thể cho để giúp đỡ người khác mà không mảy may nghĩ đến sự báo đáp. Nhờ có ông mà Ngài đã học rất tốt bài học đó. Xin đừng nói rằng ông tin việc ông được tái ngộ với chiếc áo này sau ngần ấy năm chỉ là một sự tình cờ, người bán hàng vĩ đại ạ. Hãy làm vui lòng già này và chấp nhận nó. Tôi đã có nhiều món đồ khác của con trai ở bên, cùng những kỷ niệm yêu dấu suốt nhiều năm trời. Sau cùng thì tấm áo cũng trở về với vị chủ nhân đích thực của nó.
– Tôi sẽ không bao giờ quên ngày hôm nay. – Hafid nức nở khi nâng tấm áo đỏ lên và nhẹ nhàng áp nó vào đôi má ướt đẫm nước mắt của mình.