Rời khỏi nhà Mary, hai người đàn ông đều im lặng, mỗi người đắm chìm trong suy nghĩ của riêng mình. Khi họ bước ra tới đường chính, Sergius đứng lại, rồi xoay người về phía người bạn của mình.
– Tôi vô cùng cảm kích vì hôm nay ông đã đi cùng tôi.
– Đừng nói vậy. – Người bán hàng vĩ đại phản đối, tay siết chặt cái túi đựng chiếc áo choàng của Jesus. – Chính tôi mới phải biết ơn.
– Ông có mệt không?
Hafid lắc đầu.
– Hai vị kia có trông chờ ông sớm quay về cỗ xe ngựa sang trọng của mình không?
– Không đâu. Tôi đã nói với Erasmus rằng tôi sẽ đi cả ngày. Chắc hẳn anh ấy và Galenus đang bận rộn với công việc sổ sách kế toán và hoàn thành tất cả những giao ước từ buổi diễn thuyết tối qua.
Sergius quay người lại, chỉ tay về phía sau Hafid, đó là một ngọn đồi dốc cạnh con đường, phía bên phải của hai người.
– Người ta nói với tôi đây là ngọn đồi cao nhất ở Nazareth. Ông thấy cây vả to sừng sững ở trên đỉnh chứ?
Hafid giơ tay cản bớt ánh sáng mặt trời chiếu vào mắt.
– Vâng, tôi thấy.
– Ông có nghĩ rằng cơ thể già nua của mình có thể leo lên đến đó được không, nếu có sự giúp đỡ của tôi?
– Thói ngạo mạn của người La Mã quả là cố hữu. – Hafid lầm bầm. – Nếu ngài leo được thì tôi chắc là mình cũng có thể làm được điều đó mà không cần bất cứ ai hỗ trợ. Nhưng tại sao tôi phải nhọc công leo qua những cánh đồng đầy cúc gai và lởm chởm đá sỏi chỉ để ngồi dưới một tán vả dại, trong khi ở Damascus tôi có rất nhiều cánh rừng như vậy, đủ loại cây từ non đến già?
Sergius cười tươi.
– Nhưng sẽ chẳng có cây nào như cây đó cả, ngài thương gia vĩ đại. Hôm qua, sau khi tôi ghé thăm Mẹ Mary, bà đi cùng tôi trở lại giếng nước và khi chúng tôi đi ngang qua nơi này, bà ngước nhìn lên cái cây đơn độc ấy và nói rằng đó là nơi mà ngày còn trẻ, Chúa Jesus thường đến mỗi khi Ngài muốn ở một mình. Ông nhìn thấy con đường hẹp dẫn lên đỉnh đồi ở bên phải chúng ta chứ? Lẽ ra hôm qua tôi đã lên đó rồi, nhưng khi tôi từ biệt Mẹ Mary thì mặt trời đã dần xuống núi. Và hơn nữa, tôi không muốn bỏ lỡ bài diễn thuyết của ông. Bây giờ, ông có sẵn lòng leo lên đó cùng tôi không? Tôi cho rằng khung cảnh sẽ rất xứng đáng với nỗ lực mà ông bỏ ra để leo đến đỉnh.
– Ngài dẫn đường đi! – Hafid quả quyết, quàng chiếc túi da qua vai và bước theo sau Sergius. Cả hai đều nhễ nhại mồ hôi và thở dốc khi họ lên đến đỉnh đồi, nơi chẳng hề có bất kỳ cành cây ngọn cỏ nào ngoại trừ cây vả đơn độc và các mảng rêu nho nhỏ bao phủ lưa thưa những dốc đá màu xám. Hafid đặt chiếc túi dựa vào thân cây rồi thả cơ thể mỏi mệt của mình xuống bề mặt đá bằng phẳng bên cạnh Sergius.
Dưới chân họ, tít xa phía bên dưới, là ngôi làng Nazareth với những căn nhà xây bằng đá vôi trắng, những đồng cỏ ngát xanh, và rải rác đây đó là những khu vườn nâu sẫm. Một con đường chính nhỏ hẹp chia thị trấn thành hai nửa gần như bằng nhau, phía Nam đi về Jerusalem và phía Bắc đi đến Damascus. Hafid gật đầu và mỉm cười khi Sergius chỉ tay về phía đám đông những hình hài nhỏ bé vẫn tập trung xung quanh giếng nước.
Ở phía Tây là núi Carmel, và xa hơn nữa họ có thể thấy sương mù dâng lên từ bề mặt Địa Trung Hải. Miệng há hốc kinh ngạc, họ chầm chậm quay đầu, chiêm ngưỡng vùng đồng bằng Esdraelon rộng lớn, núi Tabor, những ngọn đồi u tối của dãy Samaria, và những ngọn núi mờ sương của dãy Gilead. Biển Galilee lấp lánh ánh sáng ở phía Đông và xa tít ở phía Nam, thung lũng xanh Jordan dường như đang đổi màu trước mắt họ. Một cơn gió nhẹ thổi qua khiến những chiếc lá khổng lồ của cây vả cổ thụ ngay trên đầu họ rung lên xào xạc; ngoài xa, trên bầu trời xanh thẳm không một gợn mây, một con đại bàng đơn độc đang lượn bay chậm rãi, hai cánh vươn dài ra nhưng không hề chuyển động.
Hafid là người đầu tiên phá vỡ sự tĩnh lặng diệu kỳ của ngọn đồi. Lời ông nói từ tốn như thể ông đang bị thôi miên.
– Tôi có thể khẳng định rằng suốt ngần ấy năm sống trên đời, tôi chưa bao giờ ở một độ cao đến mức thế giới bên dưới trông rộng lớn đến như vậy. Cũng dễ hiểu vì sao Chúa Jesus thường xuyên đến đây. Mọi lo âu và trắc trở của con người đều bị bỏ lại phía sau, ở dưới kia. – Ông nói, điệu bộ hướng về phía ngôi làng. – Và nếu quả thật có Thượng Đế, tôi hình dung rằng việc trò chuyện với Người sẽ dễ dàng hơn nhiều từ độ cao này.
Sergius chỉ tay về phía xa xa ở hướng Bắc, đến đỉnh núi Hermon oai vệ phủ đầy băng tuyết, cách đó gần hai ngày đường, như đang thống trị cả đường chân trời.
– Thượng Đế từng một lần trò chuyện với Chúa Jesus trên ngọn núi cao đó.
– Trên núi Hermon à? Ngài có bằng chứng cho việc đó chứ?
– Ba trong số những tông đồ thân tín nhất của Ngài đã làm chứng.
– Thế Thượng Đế đã nói gì?
– Đây là con trai yêu quý của ta! Hãy lắng nghe nó.
– Chỉ vậy thôi ư?
– Tất cả chỉ có vậy. – Sergius trả lời, miệng mỉm cười.
– Và ngài tin vào một lời tường thuật như vậy, từ ba tông đồ thân thiết nhất của ông ấy?
– Tôi tin đủ để xây một ngôi nhà nhỏ trên ngọn núi đó, gần hết mức có thể với nơi Chúa Jesus nghe thấy tiếng nói của Thượng Đế, theo lời kể của ba người kia. Tôi luôn đảm bảo nơi đó có đầy đủ thức ăn và cắt cử người sống ở đó để trông nom suốt năm. Còn bản thân cũng cố gắng dành ra ít nhất là hai tuần nghỉ lại đó vào mỗi mùa hè. Nhiều lần tôi đã rất muốn mời ông đến đó để chia sẻ cảm giác thanh thản và yên bình đặc biệt ấy cùng tôi, nhưng tôi biết ông đã sống ẩn dật kể từ khi mất đi phu nhân Lisha, nên tôi không muốn làm phiền ông. Bây giờ, tôi sẽ rất vinh hạnh nếu ông chấp nhận lời mời của tôi và đến thăm nơi đó. Hãy dẫn theo Erasmus và lưu lại chốn ẩn dật thiêng liêng ấy bao lâu tùy ý. Trước khi chúng ta từ biệt, tôi sẽ vẽ cho ông một tấm bản đồ để ông có thể dễ dàng xác định vị trí của ngôi nhà ấy. Từ dinh thự của ông ở Damascus đến đó chỉ mất chưa đến một ngày đường.
– Và Thượng Đế cũng đã nói chuyện với ngài, trên đỉnh cao ấy ư?
– Không. Nhưng tôi thường nói chuyện với Người trong suốt thời gian lưu lại đó.
Hafid khẽ thở dài và lắc đầu, nâng chiếc túi da đựng tấm áo choàng của Jesus qua khỏi đầu, nói:
– Với lòng trung thành đầy yêu thương và tin tưởng như vậy thì ngài Sergius à, tấm áo choàng này nên ở trong tay ngài chứ không phải tôi.
– Ôi, không. – Sergius đáp lời, giơ tay chối từ. – Mẹ của Chúa Jesus biết chính xác bà ấy đang làm gì. Tấm áo đang nằm trong tay người phù hợp. Đây là ý nguyện của Thượng Đế.
Hafid đứng dậy và đặt hai tay bên hông, nhìn về phía ngọn núi Hermon.
– Sergius này, nếu Thượng Đế nói chuyện với tôi, ngài nghĩ Người sẽ nói gì về con đường sự nghiệp mới mẻ mà tôi vừa dấn thân, một cách có lẽ hết sức dại dột, ở vào cái tuổi này của mình?
Sergius đan tay lại, khép mắt và cúi đầu xuống. Sau một lúc, ông ngẩng mặt lên nhìn Hafid và khi ông cất lời, giọng ông trầm lắng hơn bình thường.
– Tôi không bao giờ dám mạo muội nói thay Thượng Đế, người bán hàng vĩ đại à, nhưng tôi hình dung trước hết Người sẽ chúc mừng ông vì quyết định giải thoát bản thân khỏi cuộc sống như đã chết của ông. Cống hiến những tháng ngày còn lại của đời mình giúp đỡ người khác, thông qua những lời khuyên chín chắn và những bài học khôn ngoan về thành công, là điều đáng khen ngợi nhất, tuy nhiên…
Hafid xoay mặt lại, cúi xuống nhìn người bạn của mình và chờ đợi.
– … tuy nhiên, nếu bài phát biểu tối qua là cách trình bày thông thường của ông, thì tuy nó đã rất xuất sắc, tôi tin rằng nó vẫn cần thêm một chút gì đó nữa. Đa số thính giả đã biết đến danh tiếng và sự giàu sang của ông. Vậy nên dù sự hiện diện và cách truyền tải của ông có thể làm họ ấn tượng thật, nhưng có khả năng cao là họ chỉ lắng nghe những lời ông nói với một tâm trí đóng kín, một tâm trí nói với họ rằng họ không bao giờ có thể đạt được những thành tựu như ông. Làm cách nào để ông mở cửa tâm trí họ? Ông chỉ có thể làm điều đó bằng cách cho họ biết về xuất thân hèn mọn của mình, về những nhọc nhằn vất vả thời trai trẻ, và những chướng ngại mà ông đã vượt qua để biến giấc mơ của mình thành hiện thực.
– Vậy làm sao để tôi thực hiện điều đó?
– Bằng những ngôn từ mạnh mẽ nhất, hãy vẽ nên trong tâm trí họ những khung cảnh mà họ sẽ không bao giờ quên được. Hãy cho họ ngửi thấy mùi phân lạc đà mà ông đã phải dọn dẹp, cho họ nhìn thấy những giọt nước mắt buồn đau của ông, cho họ khổ sở với những thất bại mà ông đã phải trải qua trong quá trình nỗ lực tạo dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hãy khiến họ rời khỏi buổi diễn thuyết của ông với suy nghĩ: “Nếu Hafid có thể làm được quá nhiều thứ với một khởi đầu tầm thường như vậy, tại sao mình – hơn ông ta rất nhiều – lại phải thương hại cho hoàn cảnh của bản thân?”. Vì tôi ngờ rằng ông hẳn chưa bao giờ nhắc đến những đau đớn và vất vả trước kia trong các bài diễn thuyết của mình. Vậy nên Hafid à, trong mắt họ chắc hẳn ông là một kẻ thuộc dòng dõi quyền quý, sinh ra trong sự giàu sang và lúc nào cũng có phú quý, thành công bên mình. Làm sao một nhà buôn nhỏ hay một người nông dân, những người mà ngày ngày phải làm lụng vất vả chỉ để nuôi sống gia đình, có thể chấp nhận thông điệp của ông như một lời chỉ dẫn giúp họ thay đổi cuộc sống theo hướng tốt hơn, khi họ không nhận ra ông cũng từng đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn như họ đang phải đối mặt hằng ngày và ông đã giành chiến thắng?
– Thật là một lời khuyên xuất sắc, Sergius. Tôi sẽ lưu tâm đến nó. Ngài còn ý kiến gì nữa không?
Sergius mở miệng, nhưng rồi lại nhìn xuống đất và im lặng, không nói gì.
– Ngài cứ nói đi. – Hafid động viên. – Chúng ta thân thiết như anh em vậy. Cứ nói những gì ngài nghĩ. Hãy giúp tôi.
– Trong kho của ông vẫn còn nhiều vàng chứ?
– Nhiều hơn so với những gì tôi và Erasmus cần, và cho tới tận bây giờ chúng tôi vẫn ngày ngày cung cấp quần áo và thức ăn cho người dân nghèo ở Damascus.
– Đúng như tôi đoán… Hafid, có một câu nói từ xa xưa mà chẳng ai rõ bắt nguồn từ đâu: “Cho người đàn ông một con cá là bạn đã nuôi sống anh ta một ngày. Dạy anh ta cách bắt cá là bạn đã nuôi sống anh ta cả đời”.
Hafid quỳ xuống cạnh Sergius, nắm lấy tay người bạn mình:
– Tôi không chắc tôi hiểu được câu nói ấy sẽ liên quan đến mình như thế nào.
– Ông thu phí tham dự những buổi diễn thuyết của mình như bao nhà hùng biện khác, và chính vì thế, những người cần lắng nghe thông điệp của ông nhất lại không nghe được, bởi họ quá nghèo để tham dự. Họ cũng giống như những người mà hiện nay ông đang cho cơm ăn, áo mặc thôi. Hãy thay đổi phương thức tổ chức và trả lương theo tuần cho người tổ chức, Galenus, thay vì để ông ta hưởng hoa hồng. Cũng hãy cử ông ta lên đường với đầy đủ ngân sách để có thể thuê cho ông nơi hội họp rộng rãi nhất ở mỗi thành phố. Đồng thời ra chỉ thị cho ông ta chiêu mộ và trả công thích đáng cho những người dân thành phố mà ông ta cần cho việc loan tin về thời gian và địa điểm mà người bán hàng vĩ đại nhất sẽ phát biểu, và đưa ra thông báo vào cổng tự do!
– Vào cổng tự do ư? Sẽ có rất nhiều người chỉ tham dự để giải trí hoặc giết thời gian, chứ chẳng mảy may nghĩ đến việc học cách cải thiện số phận mình trong cuộc sống.
– Ông nói hoàn toàn đúng. Nhiều người trí tuệ đã khẳng định rằng trừ khi một người phải trả tiền hoặc nỗ lực vất vả vì một cái gì đó, không thì họ sẽ không bao giờ trân trọng nó. Tuy nhiên, bên cạnh những khán giả xem lời nói của ông chỉ như gió thoảng qua tai, hãy tưởng tượng xem ông sẽ hài lòng đến thế nào nếu biết rằng có ít nhất một cậu bé chăn lạc đà hoặc một đứa trẻ bụi đời trong đám đông ấy có thể bắt đầu đi lên nhờ vào lời nói của mình. Tôi biết ông muốn thay đổi thế giới và khiến nó trở nên tốt hơn đến nhường nào, ông bạn của tôi, nhưng ông hãy nhớ lấy một điều. Một chân lý giản đơn.
– Chân lý đó là gì?
– Mong muốn ấy của ông chỉ có thể được thực hiện bằng cách thay đổi từng người một.
Hafid rướn người về phía trước, ôm chầm lấy người bạn yêu quý của mình.
– Cảm ơn ngài. Nếu Thượng Đế nói chuyện với tôi, Người cũng chẳng thể nói hay hơn ngài đâu.