Cái tên Đoàn Buôn Thành Công được sơn màu vàng đồng và đỏ, bằng cả tiếng La-tinh, Hy Lạp và Do Thái trên toàn bộ mười hai chiếc xe ngựa chở hành lý đang cắm trại trên một bãi cỏ rộng gần trung tâm Rôma. Trong căn lều rộng nhất trong số những căn bao quanh những cỗ xe, Hafid nâng ly rượu của mình về phía Erasmus và Galenus.
– Mừng chiến thắng tuyệt vời nhất của chúng ta. – Ông tự hào tuyên bố.
– Quả đúng là một đêm đáng nhớ. – Erasmus thở hắt ra nhẹ nhõm.
Hơn hai trăm ngọn đuốc bố trí xung quanh sân khấu nền cao và dọc theo lối đi của rạp hát Pompey nguy nga mà Augustus đã xây dựng lại. Tối hôm đó, chính tại nơi này, Hafid đã truyền tải những lời nói truyền cảm hứng của mình đến một đám đông kỷ lục: hơn mười tám ngàn người dân La Mã đầy nhiệt tình và hăng hái. Nắm chặt chiếc áo choàng đỏ đã bung sợi của Jesus, chiếc áo choàng ông đã mặc trong mọi buổi diễn thuyết kể từ chuyến viếng thăm Nazareth cách đây đã lâu, Hafid đã hân hoan đón nhận sự tung hô nhiệt liệt suốt gần một giờ đồng hồ sau khi ông kết thúc buổi thuyết giảng.
Người bán hàng vĩ đại nhấp một ngụm rượu và nói:
– Galenus, tôi sẽ mãi biết ơn ông vì đã thuyết phục tôi diễn thuyết vào buổi tối thay vì buổi trưa, cũng như vì sự giúp đỡ của ông trong những việc khác nữa. Những người mà chúng ta cố gắng tiếp cận nhất, những người lao động nghèo khổ và thương nhân nhỏ lẻ của thành phố hầu như không thể tham dự vào giờ nào khác ngoài buổi tối thế này. Tôi đã nghe nhiều người nói rằng từ trước đến nay, họ chưa bao giờ có bất kỳ cơ hội nào trong đời để lắng nghe một diễn giả.
– Ngài đã thể hiện cực kỳ ấn tượng vào tối nay. – Galenus trả lời. – Và ngài sử dụng ngôn ngữ này cứ như người bản xứ vậy.
– Cảm ơn ông. Điều đáng tiếc duy nhất là ngài Sergius Paulus không thể đến tham dự. Từ khi được biết ngài ấy đã thôi tham gia vào chính sự và lui về ở tại Rôma này, tôi đã trông mong ngài ấy sẽ đến chung vui cùng chúng ta trong buổi tối toàn thắng hôm nay. Dẫu thế nào, tôi cũng cầu mong ngài ấy sớm vượt qua cơn bệnh. Tôi sẽ gửi lời nhắn thông báo cho ngài ấy về thành công tuyệt vời của chúng ta, chắc hẳn ngài sẽ vô cùng hài lòng cho xem. Nếu không nhờ lời khuyên uyên bác của ngài ấy hơn mười lăm năm về trước, hôm nay chúng ta sẽ chẳng thể ở đây, và hẳn tôi đã đoàn tụ với Lisha yêu dấu dưới suối vàng từ lâu rồi.
Galenus gật đầu.
– Tôi vẫn còn nhớ những ngày đầu của chúng ta với độc nhất một chiếc xe ngựa. Bây giờ, đoàn này đã phát triển gần bằng quy mô của những đoàn buôn dưới trướng ngài ngày xưa trong giai đoạn kinh doanh thăng hoa nhất. Ngoài xe, chúng ta còn có mười sáu con lạc đà cùng người dắt chúng, thêm tám người lính gác có trang bị vũ khí trên lưng ngựa, hai đầu bếp, mười hai người giúp việc, và hơn bốn mươi con ngựa giúp chúng ta di chuyển thoải mái từ thành phố này đến thành phố khác. Chưa kể đến một đoàn tàu gồm mười chiếc tàu lớn ta đã thuê vì cần để chuyên chở tất cả chúng ta, cùng các trang thiết bị và vật nuôi theo lời cam kết vừa rồi tại Athens. Chúng ta đã cưỡi ngựa đi khắp thế giới, ngài Hafid ạ, để truyền thông điệp của mình miễn phí đến những người dân thường ở Alexandria, Memphis, Jerusalem, Babylon, Baghdad, Nineveh, Aleppo, Edessa, Antioch, Ephesus, Smyrna, Sparta, Athens cùng hàng trăm thành phố nhỏ khác, và bây giờ đến cả thủ đô của thế giới: Rôma. Khi nghe cách mọi người phản ứng trước lời nói của ngài, tôi biết ngài đang chạm được đến hàng ngàn mảnh đời.
Erasmus nói:
– Thật ra mà nói, tôi cảm thấy chẳng có vẻ gì là đã mười lăm năm trôi qua kể từ cuộc gặp gỡ tình cờ giữa chủ nhân và ngài Sergius Paulus ở Nazareth.
– Ta không nghĩ cuộc gặp đó là tình cờ. – Hafid đáp lại. – Với ta, đó chỉ là một minh chứng khác cho thấy Thượng Đế đang chơi với ta một ván cờ, như Người vẫn thường làm trong suốt cuộc đời này của ta. Ta tin rằng thi thoảng Người can thiệp vào cuộc sống của chúng ta và khiến sự việc diễn ra, sau đó Người đợi xem chúng ta xử lý thế nào với nước đi của Người. Một số người phản ứng theo cách cải thiện tương lai của họ, số khác lại chỉ có thể chiến đấu trong tức giận và tuyệt vọng. Và cũng có những người không phản ứng gì cả, họ chỉ như những cái xác sống. Trong chúng ta có rất nhiều người như vậy, những người chỉ biết kêu ca than vãn hết ngày này qua ngày khác và không bao giờ cố gắng thay đổi cuộc sống theo hướng tốt đẹp hơn. Đó là lý do tại sao ta dành phần lớn bài diễn thuyết của mình để dạy cho người nghèo và người bị đàn áp, người yếu đuối và người tàn tật cách đối phó với bất kỳ nước cờ nào của Thượng Đế mà họ phải đương đầu, cũng như nhắc nhở những con người phải sống chật vật này rằng mặc dù Thượng Đế ban cho ta biết bao thử thách, Người vẫn luôn muốn tất cả chúng ta chiến thắng. Ta nỗ lực chỉ dẫn họ cách giành chiến thắng và không có gì khiến ta thỏa mãn hơn khi sau nhiều năm trở lại một thành phố, ta được nghe về những thành công bắt nguồn từ việc ai đó đã nghe những lời ta nói và thật sự lưu tâm đến chúng.
– Và lần này, – Erasmus ngập ngừng, – chúng ta là những người lạ mặt trên đất Rôma, nơi có một vị hoàng đế thực sự tin rằng mình là một vị thần có thể điều khiển cuộc sống của toàn bộ thần dân từ cung điện vàng của mình. Chắc chắn rằng tối hôm nay, trong hàng ghế khán giả có những tên gián điệp trà trộn để kiểm tra xem liệu bài giảng của ngài Hafid có ẩn chứa nguy cơ khiêu khích đám đông hay không, giống như các môn đồ của Jesus đã bị kết tội vì bài hát về một vương quốc mai sau và một vương quốc trong thâm tâm mình. Nero1thậm chí còn vu khống rằng những tông đồ này đã gây ra một trận hỏa hoạn lớn vào năm ngoái. Những người chưa bị bắt và xử tử trong đấu trường hiện vẫn đang trốn chui trốn nhủi trong những hầm mộ dưới lòng thành phố. Tín ngưỡng của họ phải đánh đổi bằng một cái giá thật kinh khủng.
1 Nero Claudius Caesar Augustus Germanicus (37 – 68) là vị hoàng đế thứ năm và cũng là cuối cùng của triều đại Julius-Claudius. Ông được xem là một bạo chúa với lối sống xa xỉ, cũng bị coi là tội nhân đã đốt cháy gần như cả thành Rôma để có đất trống xây dựng cung điện cho mình.
– Ta tự hỏi, – Hafid vừa nói vừa mỉm cười, – không biết Nero sẽ phản ứng như thế nào nếu biết chiếc áo choàng ta mặc mỗi khi diễn thuyết từng thuộc về Chúa Jesus.
– Làm ơn, thưa ngài. – Erasmus khẽ nài nỉ. – Hãy để điều đó chỉ là bí mật giữa chúng ta mà thôi.
Bỗng người lính gác đứng canh bên ngoài căn lều lớn nghiêng mình qua khe hở và thông báo rằng có khách đến tìm Hafid.
– Mời ông ta vào! – Hafid vừa nói to vừa rót đầy ly rượu của mình.
Vị khách mặc chiếc áo màu xanh sẫm dài gần chạm đất buộc một sợi dây làm thắt lưng. Mái tóc nâu dài của ông ta lốm đốm bạc, trên khuôn mặt rám nắng hằn rõ những nếp nhăn. Khi ông cất lời, giọng nói thân thiện nhưng cương quyết.
– Ân sủng và bình an cho ngài. Tôi là Luke và tôi mang đến cho người bán hàng vĩ đại nhất thế giới lời nhắn từ một người bạn cũ, Paul của vùng Tarsus.
Hafid đứng bật dậy.
– Paul đang ở đây sao, ở Rôma này ư?
– Ông ấy đang là tù nhân chờ xét xử ở Praetorium2.
2 Praetorium, nghĩa ban đầu là lều chủ soái trong các cuộc hạ trại thời chiến, nơi đưa ra các quyết định quân sự quan trọng trên chiến trường; về sau được dùng để chỉ cung điện hoặc là nơi đặt trung tâm điều hành của những quan chức cấp cao của chính quyền.
– Không thể nào. – Hafid quả quyết. – Lá thư gần đây nhất của ông ấy đã thông báo tin vui là cuối cùng ông ấy cũng được trả tự do sau bốn năm bị xiềng xích ở Caesarea và Rôma vì không có đủ bằng chứng cơ mà.
– Ông ấy đã bị bắt lại, và lần này bọn họ khẳng định đã có nhân chứng nghe thấy Paul tuyên bố rằng Chúa Jesus là vua. Theo luật La Mã, công nhận bất kỳ quyền lực nào khác ngoài Caesar3 là tội tử hình.
3 Caesar (100 – 44 TCN) là thiên tài quân sự, chính trị của La Mã. Tên của ông sau này còn mang nghĩa là hoàng đế La Mã.
– Ta có thể làm được gì không? – Hafid hỏi. – Làm ơn cho ta biết ta có thể giúp gì.
– Kể từ khi bị bắt lần này, Paul dường như đã mất hết ý chí sống. Hầu hết bạn bè và môn đệ đã rời bỏ ông ấy, và ông cứ ngồi trong buồng giam không nói không rằng, chỉ ăn vụn bánh mì khô. Tôi đã lo ngại rất nhiều cho sức khỏe của ông ấy. Nhưng rồi sáng hôm nay, khi tôi nói với ông ấy rằng biểu ngữ đang bay phấp phới dọc đường Appian thông báo về sự xuất hiện của ngài tại rạp hát Pompey, mọi chuyện đã có chuyển biến mới. Và thưa ngài, chỉ sau khi nghe thấy tên ngài, ông ấy mới bắt đầu hành động như người đàn ông mà tôi đã phục vụ suốt bấy lâu. Ông ấy gửi đến ngài sự yêu mến, hỡi người bán hàng lừng lẫy, cùng chào mừng ngài đến Rôma và lời khẩn cầu ngài đến thăm ông ấy ở nhà giam. Chúng tôi không biết khi nào thì Paul sẽ bị xét xử nên tôi hy vọng ngài sẽ đến đó sớm.
– Bất cứ lúc nào ta đều sẵn sàng. – Hafid đáp không ngần ngại. – Khi nào thì ông có thể đưa ta đến đó?
– Không có ngày và đêm trong những buồng giam u tối ở chốn ngục tù đáng hận đó. Lính gác ở đó rất tin tưởng tôi, chúng ta thậm chí có thể lên đường ngay bây giờ nếu ngài không quá mệt mỏi.
Erasmus cau mày với Luke.
– Chủ nhân rất hay quên rằng ngài ấy đã gần bảy mươi lăm tuổi. Buổi diễn thuyết tối nay gần như đã rút cạn sức lực của ngài và ngài nên vào giường nghỉ ngơi.
– Không. – Hafid nói. – Ta không bao giờ quá mệt mỏi để đáp lại khi người đàn ông của Thượng Đế ấy kêu gọi mình. Luke, hãy dẫn ta đến đó ngay bây giờ.
Khi hai người chuẩn bị lên đường, Hafid dừng lại trước tủ quần áo mở toang của mình, với tay lấy chiếc áo choàng của Jesus và vắt lên vai bước ra ngoài.
– Có lẽ việc nhìn thấy tấm áo đặc biệt và thiêng liêng này một lần nữa sẽ vực dậy tinh thần của Paul, giống như nó đã luôn vực dậy ta. – Hafid giải thích với Luke.
Nhà tù u ám phủ một màu xám xịt nằm trên đồi Capitaline, gần cung điện của Nero. Nơi này chỉ nhốt tử tù chống lại nhà nước. Nó được canh gác bởi một đội đặc biệt gồm những chiến binh kỳ cựu dưới sự chỉ huy của viên thái úy đứng đầu đội vệ binh. Chưa có ai từng trốn thoát thành công khỏi nhà tù này. Người lính gác sau cánh cửa tầng trệt nhận ra Luke, và sau một lúc chờ đợi, Luke và Hafid được dẫn xuống những bậc thang đá khá dốc. Cái ẩm ướt tràn trên nền đá phiến, quyện đẫm vào cái rét cóng trong không khí. Hai người đàn ông bước theo người lính gác cao to dọc theo một hành lang đầy chuột, rồi dừng lại trước một buồng giam. Người lính gác tra chìa khóa vào cửa.
– Tôi bắt buộc phải khóa cửa nhốt cả hai người trong đó cùng phạm nhân. – Anh ta nói. – Nhưng đừng lo, khi nào hai người sẵn sàng ra về cứ gọi lớn, tôi sẽ đến.
Người lính gác mở cửa căn buồng giam tù mù và giữ cửa cho họ bước vào. Khi họ đã vào trong, anh ta thả cánh cửa cho nó tự sập lại. Tiếng sắt va đập vang vọng khắp tầng hầm.
– Luke. – Một giọng nói khô khốc vang lên từ góc tường u tối nhất. – Luke, là ông đấy à?
– Đúng vậy, Paul à, và xem này, tôi có đưa một người bạn theo cùng.
Ánh mắt người bán hàng vĩ đại làm quen dần với không gian tăm tối bên trong căn buồng giam nhỏ hẹp. Ông cảm nhận được một bàn tay đặt lên cánh tay mình trước cả khi nhìn thấy được khuôn mặt của Paul.
– Hafid. – Người đàn ông nhỏ bé nức nở. – Là ngài sao? Đúng thật là ngài sao? Người bạn và cũng là mạnh thường quân tuyệt vời của tôi! Người đã cứu rỗi cuộc đời tôi bằng cách trao cho tôi những bí kíp thành công nhiều năm về trước, để tôi có thể truyền bá thông điệp của Chúa cho cả thế giới! Rất nhiều lần tôi muốn đến thăm ngài ở Damascus, nhưng bạn bè tôi luôn cảnh báo rằng ngài đã quy ẩn và không tiếp ai cả. Nhưng nếu chỉ gửi thư thì tôi không tài nào diễn tả nổi sự vĩ đại của món nợ tôi nợ ngài. Tôi vô cùng xin lỗi vì phải gặp gỡ ngài trong tình cảnh như thế này, nhưng tôi biết ơn Thượng Đế vì ngài đã đến. Tôi rất vui khi nhận thấy rằng những năm qua của ngài đã trôi qua thật tốt đẹp.
Lúc này, Hafid đã có thể nhìn thấy gương mặt tiều tụy của Paul, với đôi mắt to nổi bật dưới hàng chân mày rậm và vầng trán rộng nhiều vết sẹo. Mái tóc ông rối bời buông xõa xuống đôi gò má hốc hác, và chiếc khố rách chỉ vừa đủ bảo vệ ông khỏi cái rét buốt chốn này. Paul níu chặt lấy Hafid như một đứa trẻ sợ hãi ôm lấy cha mẹ mình. Cuối cùng, Luke chỉ vào một chiếc bàn nhỏ:
– Đến đây, chúng ta hãy cùng ngồi xuống và trò chuyện.
Paul không lãng phí thêm một giây phút nào nữa. Đáp lại một vài câu hỏi từ hai người khách, ông thuật lại thật chi tiết về cái lý tưởng mà trên đường đến Damascus rất lâu về trước ông đã chọn theo đuổi và cách nó vĩnh viễn thay đổi cuộc đời ông. Ông hồi tưởng về chuyến thăm Hafid của mình, về món quà là những cuộn bí kíp, về những chuyến du hành đến các thành phố lớn trên thế giới, những lần bị cầm tù trước đây, lần đắm tàu khiến ông suýt mất mạng trên đảo Malta, và cuộc chiến không ngừng nghỉ của mình nhằm truyền bá thông điệp đến với những người ngoài biên giới Palestine – cuộc chiến với rất ít người giúp đỡ và ngân sách eo hẹp. Ông càng kể càng hăng say, rồi bất chợt giọng ông đứt quãng vì đuối hơi, khiến ông cười ngượng ngùng khi nhận ra nãy giờ mình đã áp đảo cuộc hội thoại thế nào.
– Thứ lỗi cho tôi, bạn yêu quý. Tôi đã cô độc ở đây quá lâu. Bất kỳ người truyền đạo tài giỏi nào cũng vậy, chỉ cần có khán giả thì sẽ huyên thuyên mãi không dừng, đúng không thưa người bán hàng vĩ đại?
Hafid mỉm cười và nhún vai.
– Sao tôi biết được, tôi đâu phải là người truyền đạo.
– Ôi chà! – Paul kêu lên và nhìn sang Luke. – Nghe ngài ấy nói kìa! Ngài Hafid, dù ngài có nhận hay không thì hai ta đều đấu tranh vì một mục tiêu là cứu loài người khỏi địa ngục, cả đàn ông lẫn phụ nữ. Chỉ khác ở chỗ, mục tiêu của ngài là cứu họ khỏi địa ngục của hiện tại, còn mục tiêu của tôi là bảo vệ họ khỏi địa ngục của ngày mai và mãi mãi về sau. Và, cả hai chúng ta đều gặp trở ngại trong việc thuyết phục những người chịu lắng nghe, rằng sống ở thiên đường hiện tại hay thiên đường vĩnh hằng đều đòi hỏi những phẩm chất như lòng yêu thương, sự quan tâm, lòng nhân ái và sự tận tụy trong công việc. Thưa ngài, dù tôi chưa bao giờ nghe những bài diễn thuyết nổi tiếng của ngài, nhưng bạn bè cho tôi biết rằng những nguyên tắc để có một cuộc sống tốt đẹp mà ngài rao giảng cũng rất gần với tư tưởng những lời rao giảng của Moses hay Solomon, hay Isaiah, hay thậm chí là Chúa Jesus. Tôi đã được nghe rằng từng lời giảng của ngài như tuôn trào mãnh liệt từ chính tâm hồn ngài, chúng có khả năng tác động đến tâm trí và con tim của tất cả những người lắng nghe. Đó là một món quà vô giá, thưa ngài Hafid. Tôi chỉ tiếc là ngài chưa thuộc giáo phái của chúng tôi.
Nói đoạn, Paul đưa tay vuốt tấm áo choàng đỏ trên lưng Hafid, mỉm cười:
– Nhưng cũng có thể là rồi, mà ngài chưa nhận ra đó thôi.
Chân Hafid bắt đầu tê cóng vì lạnh. Ông đứng dậy và bước tới bước lui trong buồng giam chật hẹp.
– Những cuộn giấy da ngày xưa tôi truyền cho ông giờ thế nào rồi?
– Tất cả tài sản của tôi đã bị thất lạc trong vụ đắm tàu năm ngoái. Tôi vẫn luôn giữ những cuộn giấy ấy bên mình suốt gần ba mươi năm, kể cả khi bị bắt giam. Thế mà cuối cùng biển cả đã đoạt lấy nó. Nhưng không hề gì, vì cả mười cuộn bí kíp đó đều đã trở thành một phần của tôi như đôi tay hay đôi mắt tôi vậy. Tôi đã nhớ nằm lòng và có thể thuật lại từng chữ một trong bất cứ cuộn nào. Và tôi cũng không đếm nổi đã bao lần những cuộn giấy ấy đã cứu mạng tôi, bằng cách hướng tôi theo con đường đúng đắn mỗi ngày.
Hafid rúm người đau xót, nhắm mắt lại và ngả người về phía sau như thể ông vừa bị tấn công. Ông xoay lưng về phía hai người bạn, mệt mỏi tựa đầu vào những song sắt. Cuối cùng, ông nhỏ nhẹ nói:
– Những cuộn giấy da đó đầy uy quyền và sự sống đến nỗi không hiểu vì sao tôi luôn mặc nhiên cho rằng nó sẽ không bao giờ biến mất. Mặc dù vậy, nếu chúng đã tồn tại được đến tận năm ngoái thì theo tính toán của tôi, những cuộn giấy đó đã hơn một trăm năm tuổi. Nói tôi nghe nào, Paul, ông đã làm như tôi bảo chứ: ông có chia sẻ tri thức trong những cuộn bí kíp đó bất cứ lúc nào có thể để giúp người khác hồi phục từ một cuộc sống khổ sở hơn cả cái chết và tận hưởng một cuộc đời mới tràn ngập hạnh phúc, thành công, và tình yêu thương không?
– Như tôi đã hứa với ngài, tôi chia sẻ chúng đến bất kỳ nơi nào mà cuộc hành trình đưa đẩy, thưa người bán hàng vĩ đại. Bất cứ khi nào thuyết phục thành công một người cải đạo, tôi cũng đồng thời chỉ dạy cho họ những nguyên tắc trong các cuộn giấy ấy, để họ được trang bị tốt hơn cho hành trình tiếp tục tiến về phía trước và chia sẻ chân lý với những người khác. Đặc biệt, trong suốt mười năm qua, đã có hàng trăm hay có lẽ là hàng ngàn bản sao, bằng giấy cói lẫn giấy da, được viết ra và lan truyền khắp thế giới từ Jerusalem đến tận Rôma.
Hafid vươn tay vuốt mái tóc rối bời của Paul.
– Ông đã thực hiện nhiều hơn những gì mình cần làm, người đưa tin vĩ đại à. Nhân loại đáng lẽ phải bày tỏ sự tôn kính đối với ông bằng một cung điện vàng bạc thay vì chốn thấp hèn dành cho chuột bọ này. Lòng tôi trĩu nặng quá; tôi cảm thấy thật bất lực. Tương lai của ông sẽ thế nào đây?
Paul khoanh hai tay trước bộ ngực trần đã gầy rộc đi của mình. Giọng ông bình thản:
– Tôi e là thời khắc mình phải giã từ cõi đời này đã ngấp nghé rồi. Nhưng tôi đã sẵn sàng. Tôi đã chiến đấu vì lý tưởng đúng đắn, và tôi tin rằng mình đã đi được đến cuối chặng đường. Luke đây đã luôn là đồng minh và là người bạn đáng tin cậy suốt nhiều năm trời của tôi, và cuối cùng tôi cũng đã có thể thuyết phục ông ấy ghi chép lại vào giấy da những gì ông ấy học được từ tôi. Sau nhiều tháng miệt mài, ông ấy đã gần như hoàn thành nhiệm vụ lâu dài đó, và giờ đây tôi đã có được chút hy vọng rằng thông điệp của mình sẽ tiếp tục sống mãi ngay cả sau khi tôi qua đời. Và ngài, Hafid, các nguyên tắc thành công và những suy nghĩ vàng ngọc của ngài đã được viết lại hay chưa, để cho thế hệ sau có thể tiếp tục đón nhận lợi ích từ những bài diễn văn tuyệt vời của ngài?
– Chưa, vẫn chưa.
– Ngài nên làm điều đó, và hãy nhanh lên. Chúng ta không biết ngày nào, giờ nào Thượng Đế sẽ gọi chúng ta về với Người. Sẽ là một mất mát lớn đối với nhân loại nếu những bí quyết về thành công và hạnh phúc của ngài cũng bị chôn vùi theo. Hãy hứa với tôi ngài sẽ giải quyết vấn đề đó, và trong thời gian sớm nhất.
Hafid gượng cười, tay nhè nhẹ vỗ lên gò má đã hóp lại của Paul.
– Tôi hứa.
Paul gật đầu.
– Khi đó, xin ngài hãy cân nhắc áp dụng cùng một hình thức với mười cuộn bí kíp gốc, thứ đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời hai chúng ta. Tôi đồ rằng sẽ không bao giờ có một phương pháp đào tạo nào tốt hơn hệ thống được sử dụng trong những cuộn giấy da đó. Một lần nữa, việc kết hợp phương pháp đó với kiến thức vĩ đại của ngài sẽ tạo ra phép màu với rất nhiều mảnh đời. Và làm ơn đừng chần chừ, tôi cầu xin ngài!
Người cai ngục đã đứng bên ngoài cửa buồng giam. Đã đến lúc từ biệt nhau. Paul ghì chặt Luke trước rồi bước đến bên Hafid. Hafid vòng tay ôm lấy cơ thể mong manh trần trụi, chỉ còn độc chiếc khố của vị tông đồ.
– Cầu mong Chúa sẽ dành chỗ cho ngài trên thiên đường của Người. – Paul nói, hít một hơi thật sâu. – Hỡi người bán hàng vĩ đại, tôi cảm tạ Thượng Đế, Đấng mà tôi phụng sự, vì đã cho ngài trở thành một phần trong cuộc đời tôi.
Paul bước lùi lại khi cánh cửa buồng giam mở ra và Luke bước ra hành lang. Hafid bỗng dừng lại ở ngưỡng cửa khiến người lính gác tỏ ra sốt ruột. Ông xoay người, nhanh chóng cởi tấm áo choàng đỏ quàng qua bờ vai gầy gò run rẩy của vị tông đồ.
– Hãy giữ ấm, bạn thân mến. – Hafid nói. – Tôi rất yêu quý ông.
– Tôi cũng yêu quý ngài. Mãi như vậy!