Trước khi đoàn xe lên đường rời khỏi Rôma, Hafid đã nhờ Luke làm người dẫn đường cho mình ghé thật nhiều cửa hàng ở khu bán sách Argiletum gần đó. Sau nhiều giờ mua sắm, cuối cùng ông cũng mua được vài ba lọ mực đen loại tốt nhất được nhập khẩu từ Ai Cập, một hộp mấy cây bút kim loại và lông ngỗng cùng với chừng một tá cuộn giấy da dê phơi khô mới toanh.
Đến giữa buổi chiều, hai người quyết định quay về đoàn xe. Cả hai mới đi được hơn năm mươi bước thì Hafid đột ngột dừng lại và chỉ tay vào một chiếc rương bằng gỗ tuyết tùng sẫm màu, sứt sẹo, nằm lăn lóc gần một quầy sách ngoài trời.
– Chiếc rương cũ kỹ đó rỗng à? – Ông hào hứng reo lên với người bán hàng mơ màng đang đứng dựa vào chiếc bàn gần đó.
– Thưa ngài, nó không chỉ rỗng mà còn đang giảm giá nữa ạ.
Hafid tiến đến gần. Giọng ông run lên:
– Ông vui lòng mở nó ra cho ta xem được không?
Ông chủ quầy hàng nhấc chiếc rương đặt lên bàn và gỡ then cài. Sau đó, ông nâng phần nắp bằng gỗ lên cho nó tự ngửa ra sau, để lộ ra phía bên trong bụi bặm.
Hafid xoay sang Luke, người đang bối rối.
– Đưa ta vài cuộn giấy mà chúng ta đã mua.
Luke đưa tay vào chiếc túi da mà ông vẫn đeo bên mình, lấy ra ba cuộn giấy. Hafid nhẹ nhàng đặt vào trong chiếc rương.
– Bây giờ hãy đưa ta thêm bảy cuộn nữa.
Bảy cuộn giấy da đặt vào hoàn toàn vừa kín chiếc rương. Hafid nhẹ nhàng đóng nắp lại và quay sang nhìn người bán hàng.
– Bao nhiêu?
– Chỉ một trăm denarii1, thưa ngài.
1 Đồng tiền La Mã.
Hafid đưa tay vào áo choàng để lấy túi tiền, nhưng Luke ngăn ông lại.
– Thưa ngài, – Luke phản đối, – cái giá đó cao gấp mười lần giá trị của cái thùng cũ kỹ này! Ngài hãy nhìn xem, bản lề đã rỉ sét và dây đai đã mòn đến cỡ nào. Đi theo tôi, tôi biết một cửa hàng tốt gần đây. Ở đó, ngài sẽ tìm thấy vô số loại rương phù hợp nhu cầu của mình hơn mà giá lại phải chăng.
– Luke, ta rất cảm kích sự quan tâm của ông, nhưng đây là chiếc rương ta muốn. Ta không tin tưởng vào đôi mắt già nua của mình lắm, nhưng nó trông giống hệt chiếc rương chứa mười cuộn giấy mà hơn sáu mươi năm trước ta đã nhận được khi còn là một cậu bé chăn lạc đà.
Luke mỉm cười nhẫn nại.
– Nhìn nó cũ kỹ và bầm dập đến mức có thể chính là chiếc rương của ngài chưa biết chừng.
Hafid trả tiền cho người bán hàng rồi nói:
– Việc ta phát hiện ra chiếc rương vào thời điểm này trong đời chắc chắn không chỉ là sự tình cờ. Thượng Đế lại đang đánh cờ với ta đây mà, và đây là một dấu hiệu tốt lành. Bây giờ ta đã có chiếc rương hoàn hảo để chứa những cuộn giấy sau khi viết xong!
Hai tuần sau, Đoàn Buôn Thành Công dừng tại cảng Sidon; và một ngày sau đó, họ đã đến giao điểm mà đi về hướng Đông sẽ đến Damascus, đi về hướng Nam thì đến núi Hermon.
Hafid bước xuống từ cỗ xe ngựa rộng lớn đã phục vụ ông và những người khác suốt nhiều năm trong những chuyến diễn thuyết. Theo sau là một cỗ xe nhỏ hơn chứa đầy thức ăn, quần áo và dụng cụ viết lách. Người đánh xe của cỗ xe nhỏ hơn bước đến bên vị chủ nhân, đưa chiếc roi da cho Hafid và nói:
– Mọi thứ đã sẵn sàng, thưa ngài.
Đến lúc này, Erasmus và Gelanus đã tập trung lại bên ông chủ của mình. Hafid quay sang viên kế toán của mình và nói:
– Ta sẽ quay về nhà ngay khi hoàn thành những cuộn giấy da, có lẽ sẽ mất khoảng hai tuần.
Erasmus không giấu được sự lo lắng.
– Thưa chủ nhân, ngài có thể cân nhắc lại và cho phép tôi cùng đi với ngài không? Đã lâu, lâu lắm rồi tôi mới rời xa ngài như vậy.
– Đừng sợ hãi, Erasmus à. Ta phải làm việc này một mình, để có thể tập trung mà không bị phân tâm. Ta sẽ sống sót thôi. Thời tiết vô cùng ấm áp và ta có dư dả thức ăn cho nhiều tuần liền. Chúng ta sẽ sớm gặp lại thôi. Anh vẫn còn giữ bản sao tấm bản đồ đến ngôi nhà trên núi Hermon mà ngài Sergius Paulus đã trao cho chúng ta chứ?
Erasmus vỗ lên tấm áo choàng.
– Nó ở ngay đây, thưa ngài.
Hafid gật đầu khi ôm người bạn trung thành vào lòng.
– Nếu sau khoảng một tháng mà ta vẫn chưa về và anh cảm thấy cô đơn, anh cứ việc ghé thăm ta. Còn bây giờ, hãy quay về ngôi nhà của chúng ta ở Damascus, nhớ đưa Galenus đi cùng anh như chúng ta đã thỏa thuận. Ông ấy sẽ giúp ích rất nhiều trong việc giải thể đoàn buôn. Còn bây giờ thì, tạm biệt. Tối nay, ta sẽ ngủ một mình ở nơi mà Thượng Đế từng lên tiếng.
Đường đến ngôi nhà trên núi Hermon thoai thoải đến mức Hafid khó lòng nhận ra mình đang leo núi – ngọn núi hùng vĩ mà nhìn từ xa cứ như chạm được đến thiên đường. Ông không thúc ép hai chú ngựa giống của mình bởi ông muốn tận hưởng những con dốc thơm ngát với nào sồi xanh, táo gai, cây hạnh, nào huệ dạ hương, hoa anh thảo, hoa mao lương mọc sum suê dọc ven đường. Sau hơn một giờ đồng hồ, ông tới một cột đá trắng khổng lồ gồ ghề, cao hơn năm mươi cubit2 nổi bật giữa những ụ đá nhỏ. Theo bản đồ, ông biết mình chỉ còn hai dặm đường nữa là đến.
2 Cubit: đơn vị đo chiều dài ngày xưa, bằng khoảng 45 cm.
Tiếp tục tiến về phía trước, ông thấy phía bên trái mình, thế giới dường như trải rộng trước mắt, cho ông thỏa thích ngắm nhìn. Xa xa, ánh sáng lấp lánh phản chiếu từ mặt biển Galilee. Người bán hàng vĩ đại nheo mắt mong nhìn thấy Damascus yêu dấu của ông nằm ở hướng Đông, nhưng vùng sa mạc phía đó đã phủ một dải sương mù dày đặc. Bên phải ông là đỉnh núi cao vời vợi phủ một lớp băng tuyết trắng lấp lánh, nhìn xa tưởng như bao phủ toàn bộ đỉnh núi nhưng thực chất chỉ đọng vào những chỗ trũng và các khe nứt.
Tấm bản đồ của Sergius Paulus đã thể hiện rằng đoạn cuối con đường sẽ trải ngang một rừng cây bách xù núi dại che khuất căn nhà của vị tổng trấn già khỏi tầm mắt lữ khách. Ngay khi cỗ xe qua khỏi cành cây xanh cuối cùng, Hafid lập tức dừng lại. Trước mặt ông chính là đích đến – ngôi nhà với những tán cây phủ xòe trên mái.
Một người đàn ông vai rộng, mặc áo da thú đang đứng cạnh cổng chính của ngôi nhà nhỏ, tò mò quan sát khi Hafid xuống xe. Anh ta ngập ngừng chờ đợi, đến khi người bán hàng vĩ đại giơ tay lên chào thì anh ta mới lên tiếng:
– Ông lạc đường sao, người lạ mặt?
– Tôi không nghĩ vậy. Anh là Stephanas phải không?
– Chính tôi.
– Người bạn và chủ nhân của anh, ngài Sergius Paulus, gửi lời chào đến anh. Đồng thời, ngài cũng gửi tôi một lá thư với những chỉ thị của ngài cho anh.
Stephanas nhận lấy cuộn giấy da nhỏ, gỡ niêm phong rồi vội vã đọc những dòng chữ ghi trên đó. Sau đó, anh ta kính cẩn cúi đầu trước Hafid và nói:
– Chào mừng ngài đến đây. Hãy để tôi mang hành lý vào trong và giúp ngài ổn định ở nơi chốn đặc biệt này.
Hafid cầm lấy bàn tay phải chai sạn của người đàn ông trẻ tuổi và đặt vào đó hai đồng tiền vàng.
– Ta rất tiếc vì đã khiến anh phải rời xa ngôi nhà của mình; tuy nhiên, ta sẽ không ở đây lâu. Và khi ngài Sergius cho ta biết gia đình anh cũng không cách xa nơi đây là bao, ta cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn đôi chút.
Stephanas gật đầu, ánh mắt như dán vào số tài sản kếch sù vừa nhận được.
– Tôi vẫn luôn hối hận vì hè này chưa về thăm bố mẹ. Đây sẽ là một dịp tốt.
Ngôi nhà chỉ có vỏn vẹn bốn phòng nhưng vẫn được bài trí sang trọng theo cùng phong cách mà Sergius đã áp dụng cho cả cung điện và trang viên của mình. Chiếc bàn lớn nơi Hafid vừa đặt bút, mực và giấy lên chính là thứ hợp ý ông nhất ở đây. Chiếc rương cũ ông mua ở La Mã được đẩy xuống gầm bàn. Stephanas giúp ông dỡ hết thức ăn và những hàng dự trữ khác từ xe ngựa xuống, rồi ôm củi vào chiếc lò sưởi lớn bằng đá.
– Thưa, trước khi tôi lên đường, ngài có câu hỏi nào không? Ngài có muốn tôi chỉ thêm cho ngài cái gì không?
Suốt từ lúc nãy đến giờ, Hafid vẫn luôn nhìn chằm chằm về phía cánh cửa dẫn ra rừng cây tối tăm đằng sau ngôi nhà.
– Có. – Ông ôn tồn trả lời. – Anh có thể dẫn ta đến nơi Thượng Đế từng lên tiếng không?
– Mời ngài theo tôi. – Stephanas nói, rồi anh dẫn người đàn ông lớn tuổi đi dọc theo một con đường trải đầy hoa cúc. Cuối cùng anh dừng lại, tựa người vào một thân cây.
– Vài năm trước, khi Peter trở lại đây cùng với ngài Sergius, ông ấy đã kể rằng tất cả đều xảy ra chính tại nơi đây. Ngài nhìn đi, tôi đã xếp đá thành vòng tròn để làm dấu chỗ này. Tôi nghe kể rằng Peter, James và John đã đi cùng Jesus từ Caesarea Philippi đến đây, và cả ba người vì quá mệt mỏi nên vừa đến đã ngủ quên trên đất. Peter nói rằng họ thức dậy vì một luồng sáng lóa mắt tỏa ra từ nơi Chúa Jesus đang quỳ và cầu nguyện. Sau đó, một đám mây rực rỡ hạ xuống chỗ họ, và trong sự tĩnh lặng, họ nghe thấy một giọng nói vang lên: “Đây là con trai yêu quý của Ta; hãy nghe lời anh ta”.
– Chuyện gì xảy ra sau đó? – Hafid hỏi.
– Theo lời kể của Peter thì sự kiện ấy kết thúc rất nhanh, chỉ trong vài phút ngắn ngủi. Đám mây kia mau chóng tan biến, chỉ còn những vì sao trên bầu trời dõi xuống.
Hafid bước qua những tảng đá lớn, chậm rãi tiến về phía bãi đất gồ ghề, vào giữa vòng tròn. Mặc dù trời lạnh, nhưng khi vừa đến gần tâm vòng tròn, ông bỗng cảm nhận được một cơn gió ấm bất chợt thổi qua, cùng tiếng tim đập thình thịch của chính mình. Stephanas bất ngờ cất tiếng nói khiến ông giật mình:
– Nếu ngài không còn cần gì nữa, tôi xin phép lên đường luôn để kịp xuống núi trước khi mặt trời lặn.
Hafid dõi theo Stephanas đến tận khi anh ta hoàn toàn biến mất trong bóng chiều chạng vạng. Sau đó, ông quỳ xuống gần tảng đá lớn nhất, chắp hai bàn tay lại và tựa lên bề mặt gồ ghề của nó. Chợt ông lại cảm nhận được làn hơi ấm bí ẩn lúc nãy. Ngay khi đó, ông quyết rằng mình sẽ quỳ gối trước tảng đá này vào mỗi sáng, chừng nào mình còn lưu lại ngọn núi này, để cầu xin được hỗ trợ trong công trình hoàn thành những cuộn giấy.
Tối hôm đó ông chẳng ngủ mấy. Đôi mắt ông nhìn xoáy vào bóng tối trong khi tâm trí ông dự tính những lời mình sẽ viết.
– Đây, – ông nói lớn, – đây là thách thức lớn nhất đời con. Con đã được ca ngợi vì đế chế thương mại và nghệ thuật hùng biện của mình, nhưng thật quá khó để có thể nhào nặn nên những con chữ có sức mạnh thay đổi được tương lai của người đọc. Việc hoàn thành sứ mệnh ấy sẽ là thành tựu lớn nhất và là một phép màu đối với con. Con biết một mình con không thể đảm đương nhiệm vụ gần như bất khả thi này. Thượng Đế, xin Người hãy giúp con, con van xin Người.
Sáng hôm sau, Hafid dùng bữa sáng nhẹ và bước ra ngoài. Ông hít thật sâu nhiều lần rồi tiến về phía vòng tròn đá, quỳ gối và lần nữa cầu xin sự giúp đỡ. Sau đó, ông quay vào nhà, chọn một vị trí thoải mái trên chiếc ghế da ở bàn làm việc, rồi mở một cuộn giấy mới, chấm đầu bút lông ngỗng vào lọ mực và bắt đầu viết…
Mỗi ngày hai lần, vào buổi sáng và buổi tối trước khi nghỉ ngơi, tôi sẽ đọc những gì viết trên cuộn giấy này. Lần đọc buổi tối sẽ là đọc to. Tôi sẽ duy trì cách làm này suốt bảy ngày, kể cả ngày lễ thánh, trước khi bắt tay vào cuộn giấy đánh số tiếp theo. Cứ vậy trong mười tuần, tôi sẽ hoàn thành việc đặt nền tảng để xây dựng một cuộc sống mới và tốt đẹp hơn.
Tôi hiểu rằng nếu không đặt ra quy định, tôi sẽ bỏ bê việc đọc hằng ngày. Trong cuộc sống này cũng vậy, tôi hiểu rằng những thành công mà tôi có thể đạt được bằng những kiến thức này tỷ lệ thuận với nỗ lực tôi dành ra để lĩnh hội nó…