C
àng đói, tâm trí ta càng hoạt động mạnh mẽ và ta cũng trở nên nhạy cảm với mùi thức ăn hơn.
Tarkad, con trai của Azure, chắc chắn đã nghĩ như vậy. Trong hai ngày qua, anh không có chút thức ăn nào bỏ bụng ngoài hai quả sung nhỏ hái trộm trên tường của một khu vườn. Anh không kịp trộm thêm một quả nữa vì người đàn bà chủ vườn đã đuổi đánh anh. Tiếng thét chói tai của mụ vẫn còn ám ảnh khi anh đã ở trong khu chợ. Cũng nhờ nó mà anh đã ngăn chặn được những ngón tay bồn chồn của mình khỏi ăn cắp trái ngon trong giỏ của mấy người phụ nữ.
Chưa bao giờ anh thấy ở các khu chợ Babylon có nhiều loại thức ăn thơm ngon tới như vậy. Khi rời khỏi chợ, anh đi ngang qua nhà trọ và đi tới đi lui trước cửa hàng ăn. Nếu may mắn, anh có thể gặp một người quen; họ sẽ cho anh mượn một đồng, hay anh có thể nhận được một nụ cười và sự giúp đỡ của ông quản lý nhà trọ cau có. Dù anh biết kẻ không có tiền sẽ không được nghênh đón ở đây.
Đang lơ mơ suy nghĩ, anh đụng phải người mình muốn tránh mặt nhất, Dabasir, thương lái lạc đà với dáng người cao nhỏ, thon gọn. Trong tất cả đám bạn và người quen khác mà anh đã vay một ít tiền, Dabasir là người khiến anh cảm thấy ngại nhất vì anh đã không giữ được lời hứa trả nợ kịp thời.
Khuôn mặt của Dabasir sáng lên khi thấy anh. “Ồ! Là Tarkad, tôi mong anh suốt vì anh vẫn còn nợ tôi hai đồng mà tôi đã cho anh mượn một tháng trước, và thêm một đồng bạc mà tôi đã cho anh mượn trước đó nữa. Gặp nhau ở đây thật tốt quá. Tôi đang có vài thứ cần chi tiêu với mấy đồng đó đây. Anh nghĩ sao, chàng trai?”
Tarkad lắp bắp và mặt thì đỏ bừng. Anh chẳng còn gì trong bụng để bắt bản thân mình cãi lại những lý lẽ chính đáng của Dabasir, “Tôi xin lỗi, rất xin lỗi”, anh lầm bầm một cách yếu ớt, “nhưng tôi không thể trả nợ được”.
“Vậy thì cố kiếm tiền đi”, Dabasir nhấn mạnh, “Chắc chắn anh cũng phải kiếm được một vài đồng bạc lẻ để trả ơn cho sự hào phóng của người bạn cũ của cha anh, người đã giúp đỡ anh khi cần chứ?”
“Là vì số mệnh đen đủi nên tôi không thể trả được nợ cho ông.”
“Số mệnh ư! Đừng đổ lỗi cho các vị thần vì sự yếu đuối của chính mình. Số mệnh đen đủi chỉ theo đuổi kẻ biết vay mượn mà không nghĩ tới việc trả nợ. Đi theo tôi vào cửa hàng ăn nào. Tôi đói rồi, và tôi muốn kể cho anh nghe một câu chuyện.”
Tarkad bất ngờ trước sự thẳng thắn của Dabasir, nhưng ít nhất anh sẽ được mời ăn. Dabasir kéo anh đến một góc xa của căn phòng và họ ngồi trên những tấm thảm nhỏ. Khi Kauskor, chủ hàng ăn xuất hiện với nụ cười trên môi, Dabasir đã gọi món với sự hào phòng như mọi khi: “Ông thằn lằn béo của sa mạc, hãy mang cho tôi một cái chân dê chín nâu và mọng nước, thêm cả bánh mì và thật nhiều rau vì tôi đang rất đói rồi. Đừng quên phần anh bạn của tôi nữa. Hãy mang cho anh ta một bình nước. Nước mát nhé, vì trời hôm nay nóng quá.”
Tarkad chùng xuống. Anh sẽ phải ngồi đây và uống nước trong khi nhìn người đàn ông này nuốt chửng cả một cái chân dê sao? Anh không nói gì. Và anh không nghĩ mình có thể nói gì cả.
Dabasir, tuy vậy, không để ý đến sự im lặng của anh. Ông tiếp tục mỉm cười và vẫy tay chào những vị khách khác, họ đều quen ông, rồi ông tiếp tục nói.
“Tôi nghe được một lữ khách vừa trở về từ Urfa nói rằng, một người đàn ông giàu có nào đó sở hữu tấm đá cắt mỏng đến mức người ta có thể nhìn xuyên qua nó. Anh ta lắp nó lên cửa sổ nhà mình để ngăn mưa hắt vào. Loại đá đó màu vàng, người lữ khách kể thế, và khi ông ta nhìn qua tấm đá, thế giới bên ngoài trông rất kì lạ và ảo mộng. Anh nghĩ gì về điều đó, Tarkad? Anh có nghĩ rằng cả thế giới sẽ đổi màu chỉ vì một tấm đá không?”
“Tôi cá là có”, chàng trai trả lời, thực chất thứ lúc này anh quan tâm nhiều hơn là cái chân dê béo ngậy trước mặt Dabasir.
“Chà, tôi biết điều đó đúng với bản thân tôi, bởi tôi đã từng nhìn thế giới với màu sắc hoàn toàn khác. Câu chuyện tôi định kể nói về cách tôi đã nhìn nhận thế giới với đúng màu sắc của nó như thế nào.”
“Dabasir sẽ kể chuyện đấy”, một thực khách gần đó nói nhỏ với người ngồi bên cạnh và kéo tấm thảm của mình lại gần ông để nghe. Những thực khách khác thậm chí còn mang theo thức ăn của họ và chen chúc đứng thành một nửa vòng tròn xung quanh Dabasir. Họ đứng cạnh Tarkad, nhai ngấu nghiến những miếng thịt trên tay. Mỗi mình anh là không có thức ăn. Dabasir không mời anh ta, và cũng không thèm chỉ vào miếng bánh mì cứng vỡ rơi trên sàn nhà.
“Câu chuyện mà tôi sắp kể”, Dabasir bắt đầu, ông ngừng lại một giây để cắn một miếng đùi dê ngon lành, “về thời trẻ của tôi và cách tôi đã trở thành thương lái lạc đà như thế nào. Mọi người có biết tôi từng là nô lệ ở Syria không?”
Dabasir thích thú nghe tiếng mọi người rầm rì ngạc nhiên.
“Khi tôi còn là một chàng trai trẻ”, Dabasir tiếp tục sau một miếng cắn ngon lành vào đùi dê, “Tôi đã học nghề từ cha tôi, một người thợ làm yên ngựa. Tôi đã làm việc tại cửa hàng của ông và lấy vợ. Thời điểm đó tôi còn trẻ và không thực sự giỏi, vì vậy tôi chỉ kiếm vừa đủ để có thể chi trả cho người vợ đẹp của mình. Tôi luôn khao khát có được những thứ tốt đẹp mà tôi không thể mua. Chẳng lâu sau, tôi nhận thấy các chủ cửa hàng vẫn tin tưởng tôi sẽ trả tiền dù tôi không thể thanh toán được ngay tại thời điểm mua.”
“Do còn trẻ và thiếu kinh nghiệm nên tôi không biết rằng kẻ tiêu nhiều hơn số tiền anh ta kiếm được sẽ tự gieo mình vào vòng xoáy của lòng tham đầy rắc rối và tủi nhục. Cứ như thế, tôi tự thỏa mãn mong muốn bồng bột của bản thân vào những bộ quần áo sang trọng và các món đồ xa xỉ cho vợ và ngôi nhà của chúng tôi, mọi thứ đều vượt quá khả năng chi tiêu.”
“Tôi đã trả hết mức có thể và trong một khoảng thời gian, mọi thứ vẫn ổn. Nhưng đến lúc tôi phát hiện ra mình không thể sử dụng thu nhập vừa để chi trả cho nhu cầu hằng ngày vừa để trả nợ. Các chủ nợ bắt đầu thúc ép tôi và cuộc sống từ đó của tôi trở nên khốn khổ. Tôi vay mượn của bạn bè, nhưng cũng không thể trả nợ cho họ. Mọi thứ ngày càng tồi tệ. Vợ tôi về ở với bố và tôi quyết định rời Babylon để tìm một thành phố khác nơi chàng trai trẻ như tôi có cơ hội làm ăn tốt hơn.”
“Trong hai năm, tôi làm việc cho đoàn lữ hành không ngừng nghỉ nhưng chẳng có thành công nào. Tôi dần rơi vào con đường cướp bóc, tôi nhập hội với một toán người lưu manh chuyên nhắm vào các đoàn lữ hành không được bảo vệ. Việc đó thật làm xấu mặt cha tôi, tuy nhiên khi đó tôi vẫn còn nhìn thế giới thông qua mảnh đá màu và không nhận ra được sự đổ đốn của bản thân.”
“Chúng tôi thành công trong chuyến đi đầu tiên, thu được một lượng lớn vàng, lụa và hàng hóa có giá trị. Và đã phung phí hết số chiến lợi phẩm đó ở Ginir.”
“Lần thứ hai mọi chuyện không được may mắn như vậy. Ngay sau khi chặn đoàn lữ hành, chúng tôi đã bị tấn công bởi quân đội của một tù trưởng bản địa mà đoàn lữ hành trả tiền bảo kê cho họ. Hai người đứng đầu của nhóm bị giết, và những người còn lại thì bị đưa đến Damascus, lột sạch quần áo và bán làm nô lệ.”
“Tôi được một thủ lĩnh sa mạc Syria mua lại với hai đồng bạc. Tóc rối bù và chỉ có chiếc khố để mặc, vì vậy tôi trông không khác gì so với những nô lệ khác. Vì chỉ là một thanh niên liều lĩnh, nên tôi nghĩ đó là một phần của cuộc phiêu lưu, cho đến khi chủ nhân đưa tôi đến trước bốn người vợ của ông ta và nói với họ rằng họ có thể sở hữu tôi như một hoạn quan.”
“Sau đó, thực sự, tôi đã nhận ra được sự vô vọng của mình. Những người đàn ông trên sa mạc này rất hung dữ và hiếu chiến. Tôi phải tuân theo ý muốn của họ, và cũng không có vũ khí hay phương tiện nào để trốn thoát.”
“Tôi đứng trước bốn người phụ nữ trong sự sợ hãi tột cùng. Tôi tự hỏi liệu tôi có thể mong đợi lòng thương xót từ họ không? Sira, người vợ đầu tiên lớn tuổi hơn những người khác bình thản nhìn tôi. Tôi cố gắng nhìn theo bà để tìm kiếm sự thương cảm. Tiếp theo là một người đẹp khinh bỉ nhìn tôi, thờ ơ như thể tôi chỉ là sâu bọ. Hai người trẻ tuổi hơn coi việc này như một trò đùa thú vị vậy.”
“Thời gian dài như bất tận khi tôi đứng đó. Mỗi người phụ nữ đều đang đợi người còn lại quyết định. Cuối cùng, Sira lên tiếng với giọng điệu lạnh lùng.
‘Chúng ta có nhiều hoạn quan, nhưng người chăm lạc đà thì rất ít và chúng đều là một lũ vô dụng. Ngay cả hôm nay, khi tôi cần đến thăm mẹ bị bệnh nhưng không có một tên nô lệ nào tôi có thể tin tưởng để dẫn lạc đà cả. Hỏi tên nô lệ này xem hắn có biết dẫn lạc đà không?’
Chủ nhân hỏi, ‘Ngươi biết gì về lạc đà?’
Cố gắng che giấu sự phấn khích của mình, tôi trả lời: ‘Tôi có thể điều khiển chúng quỳ xuống, chất hàng lên chúng, và dẫn chúng trên những chuyến đi dài mà không bị mệt. Nếu cần, tôi có thể sửa chữa cả yên của chúng.’
‘Hắn có vẻ ổn đấy’, chủ nhân quan sát tôi và nói. ‘Nếu nàng thích, Sira, hãy cho hắn làm người chăm lạc đà của nàng.’
Nhờ biết cách dẫn lạc đà mà tôi được chuyển sang cho Sira và ngay hôm đó tôi đã dẫn lạc đà lên đường đi thăm người mẹ ốm yếu của bà. Tôi đã tranh thủ cảm ơn bà vì sự can thiệp trước đó, và nói với bà rằng tôi vốn không phải nô lệ mà là con trai của một người tự do, làm yên ngựa đứng đắn ở Babylon. Tôi cũng kể cho bà nghe nhiều chuyện của tôi. Ý kiến của bà làm tôi thấy bối rối và tôi đã suy ngẫm rất nhiều về những gì bà ấy nói.
‘Làm thế nào mà ngươi có thể gọi mình là một người tự do khi chính sự yếu đuối của bản thân đã đưa ngươi đến đây? Nếu một người mang trong mình tâm hồn của một nô lệ thì tự nhiên sẽ trở thành nô lệ bất kể hắn có xuất thân thế nào, giống như là nước chảy về nguồn vậy. Còn nếu một người có linh hồn tự do, anh ta sẽ được tôn trọng trong thành phố của riêng mình bất chấp sự bất hạnh của anh ta chứ.’
Trong hơn một năm, tôi làm việc như một nô lệ đúng nghĩa, tôi sống với các nô lệ khác, nhưng không thể hòa nhập với bọn họ. Một ngày nọ, bà Sira hỏi tôi, ‘Khi những nô lệ khác đang hòa nhập và vui đùa với nhau, tại sao ngươi lại ngồi trong lều một mình?’
Tôi trả lời: ‘Tôi suy nghĩ về những gì bà đã nói. Tôi tự hỏi liệu tôi có mang trong mình tâm hồn của một kẻ nô lệ hay không? Tôi không thể tham gia cùng với những nô lệ khác được, vì vậy tôi cần phải giữ khoảng cách.’
‘Ta cũng vậy, ta cũng giữ khoảng cách với người khác.’ Bà tâm sự, ‘Số của hồi môn của ta rất lớn và ông chủ cưới ta vì điều đó. Thế nhưng ông ta chưa bao giờ khao khát con người ta. Điều mà mọi người phụ nữ mong muốn là được người khác thèm muốn. Vì như vậy, và vì ta đã già, lại còn không có cả con trai lẫn con gái, nên ta không thể ngồi cùng những người khác. Nếu ta là đàn ông, ta thà chết chứ không muốn phải trở thành một người như vậy, nhưng quy ước của bộ lạc này khiến phụ nữ chẳng khác nào nô lệ cả.’
‘Bà nghĩ gì về tôi lúc này?’ Tôi bất ngờ hỏi bà.
‘Liệu tôi thật sự có tâm hồn của một người đàn ông không hay tôi chỉ là một nô lệ?’
‘Ngươi có khao khát trả được nợ ở Babylon không?’ Bà hỏi.
‘Có chứ, tôi rất muốn trả nợ, nhưng không biết làm thế nào.’
‘Nếu ngươi hài lòng để năm tháng trôi qua và không nỗ lực trả nợ, thì ngươi sẽ mãi chỉ là một tên nô lệ hèn kém. Người đàn ông tự do là người có lòng tự trọng, và người có tự trọng sẽ không bao giờ khất nợ.’
‘Nhưng tôi có thể làm gì được khi chỉ là một nô lệ ở Syria?’
‘Cứ ở lại Syria mà làm nô lệ, tên yếu đuối này.’
‘Tôi không phải là một kẻ yếu đuối.’ Tôi tức giận.
‘Vậy hãy chứng minh điều đó.’
‘Bằng cách nào?’
‘Chẳng phải mọi vị vua vĩ đại đều chiến đấu với kẻ thù bằng toàn bộ sức lực sao? Nợ chính là kẻ thù của ngươi. Nợ đã đuổi ngươi đi khỏi Babylon. Ngươi đã bỏ quên chúng và khiến chúng trở nên quá lớn mạnh. Nếu ngươi chiến đấu như một người đàn ông, thì ngươi đã có thể chinh phục chúng và trở thành người được tôn trọng trong thành phố. Nhưng ngươi không đủ tâm trí để chiến đấu, và những gì còn sót lại của sự kiêu hãnh trong bản thân ngươi đã chết ngóm khi ngươi trở thành nô lệ ở Syria rồi.’
Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về những lời chỉ trích gay gắt của bà và đã chuẩn bị nhiều lý lẽ để chứng minh với bà rằng tôi không phải là một nô lệ, nhưng tôi không có cơ hội nói chuyện với bà. Ba ngày sau, một cô hầu gái của Sira đưa tôi đến gặp bà lần nữa.
‘Mẹ của ta lại trở bệnh nặng.’ Bà nói. ‘Hãy chuẩn bị hai con lạc đà tốt nhất của chồng ta. Và đem theo nước cùng lương thực cho một quãng đường dài. Người giúp việc sẽ đưa cho ngươi lương thực ở lều bếp.’ Tôi vừa chất hành lý lên lạc đà, vừa băn khoăn về số lương thực người giúp việc đưa cho tôi, vì nhà mẹ Sira chỉ cách đó có một ngày đi đường. Người giúp việc cưỡi lạc đà theo sau, còn tôi dẫn lạc đà của bà chủ. Khi chúng tôi tới nơi, trời đã rất tối. Sira cho người giúp việc lui về, rồi nói với tôi:
‘Dabasir, ngươi mang trong mình linh hồn của một người tự do hay của một tên nô lệ?’
‘Linh hồn của một người tự do.’ Tôi nhấn mạnh.
‘Đây là cơ hội để ngươi chứng minh điều đó. Ông chủ ngươi và các tù trưởng khác đang say rượu. Hãy trốn thoát cùng với số lạc đà này. Trong túi là quần áo của ông chủ, chúng sẽ giúp ngươi ngụy trang. Ta sẽ nói rằng ngươi đã đánh cắp những con lạc đà rồi chạy trốn trong khi ta đang mải thăm nom người mẹ già ốm của ta.’
‘Bà có linh hồn của một nữ hoàng.’ Tôi nói với bà, ‘Tôi ước rằng tôi có thể giúp bà được hạnh phúc.’
‘Hạnh phúc’, bà trả lời, ‘không chờ đợi một người bỏ đến những vùng đất xa xôi giữa người xa lạ. Hãy đi theo con đường của riêng mình và cầu xin các vị thần của sa mạc bảo vệ ngươi, vì con đường phía trước còn dài và gian khổ lắm.’
Tôi không cần phải bị thúc giục thêm nữa. Tôi cảm ơn bà vì tất cả mọi thứ rồi vội vã đi vào màn đêm. Tôi không biết gì về đất nước xa lạ này và chỉ lờ mờ biết Babylon nằm ở hướng nào, nhưng tôi vẫn dũng cảm băng qua sa mạc đi về phía những ngọn đồi. Tôi cưỡi một con lạc đà và dẫn theo con còn lại. Tôi đi suốt ngày đêm trong những ngày tiếp theo mà không dám ngừng nghỉ, vì nghĩ đến số phận của một tên nô lệ dám cướp lạc đà của chủ nhân rồi bỏ trốn.
Cuối buổi chiều hôm đó, tôi đặt chân đến một vùng đất khô cằn không khác gì sa mạc cả. Tảng đá sắc nhọn làm bầm tím đôi chân những con lạc đà trung thành của tôi và chẳng mấy chốc, chúng chậm chạp đi theo sau tôi một cách đầy đau đớn. Tôi đã không hề gặp được một người hay bất cứ con thú nào suốt dọc đường, và điều đó cũng vô cùng dễ hiểu.
Hành trình đó không có mấy người có thể sống để trở về kể lại. Ngày qua ngày tôi cứ đi mãi. Nước và thức ăn đã dần cạn. Ánh mặt trời chói chang rọi trên đầu. Cuối cùng, vào ngày thứ chín, tôi trượt xuống từ trên lưng lạc đà và cảm thấy sẽ không còn sức lực để leo lên đi tiếp nữa, rằng tôi sẽ chết ở đây, giữa vùng đất đồng không mông quạnh.
Tôi nằm dài trên mặt đất và ngủ, không thức dậy cho đến khi tia sáng ban ngày đầu tiên xuất hiện.
Tôi ngồi dậy và nhìn xung quanh. Có làn gió mát mẻ trong không khí buổi sáng. Những con lạc đà của tôi đang nằm cách đó không xa. Xung quanh tôi vẫn là vùng đất hoang vu đầy sỏi đá và những cây gai, không hề có dấu hiệu của nước, và cũng chẳng có một bóng người hoặc lạc đà nào khác cả.
Ta sẽ đối mặt với cái chết trong sự yên tĩnh này ư? Tâm trí tôi rõ ràng hơn trước rất nhiều. Cơ thể tôi dường như không còn quan trọng nữa. Môi nẻ và chảy máu, lưỡi khô và sưng, còn bụng tôi thì trống rỗng, nhưng tất cả không còn đau đớn như ngày hôm qua nữa.
Tôi nhìn vào khoảng không khô cằn trước mắt và một lần nữa nghĩ về câu hỏi: ‘Tôi có tâm hồn của một nô lệ hay một người tự do?’ Rồi tôi nhận ra nếu mình có tâm hồn của một nô lệ, tôi nên bỏ cuộc, nằm xuống và chết giữa sa mạc như một tên nô lệ bỏ trốn đích thực.
Nhưng nếu tôi có linh hồn của một người tự do thì sao? Chắc chắn tôi sẽ quay trở lại Babylon, trả ơn những người đã tin tưởng tôi, mang lại hạnh phúc cho người vợ thực sự yêu tôi, và sự bình yên, hài lòng cho cha mẹ tôi.
‘Nợ là kẻ thù đã đuổi ngươi đi khỏi Babylon.’ Bà Sira đã nói như thế. Đúng vậy. Tại sao tôi lại không thể đứng lên như một người đàn ông chứ? Tại sao tôi lại để vợ tôi phải trở về nhà cha đẻ?
Sau đó, như có một điều kỳ lạ xảy ra. Tất cả thế giới dường như mang màu sắc khác đi, như thể tảng đá làm mờ mắt tôi được loại bỏ. Cuối cùng, tôi nhận ra giá trị đích thực của cuộc sống.
Chết trên sa mạc ư! Chắc chắn không xảy ra được! Với một cái nhìn mới, tôi nhận ra việc mình phải làm. Đầu tiên là tôi cần quay lại Babylon và đối mặt với những người mà tôi có nợ chưa trả. Tôi nên nói với họ rằng sau nhiều năm lang thang và khổ cực, tôi đã trở lại để cố gắng trả nợ như các vị thần đã cho phép. Rồi sau đó tôi sẽ gây dựng một mái ấm cho vợ và trở thành một công dân tích cực mà cha mẹ có thể tự hào.
Nợ là kẻ thù của tôi, nhưng những người tôi nợ là bạn của tôi vì họ đã tin tưởng tôi.
Tôi lảo đảo bước đi trong yếu ớt. Cơn đói khát nào có còn quan trọng? Chúng chỉ là những cản trở nhỏ trên đường trở về Babylon của tôi thôi. Trong tôi trào dâng một tinh thần quyết tâm mãnh liệt của người tự do quay trở về chinh phục kẻ thù và trả nợ cho bạn bè. Trong tôi rực cháy lòng kiên định.
Đôi mắt của những con lạc đà lóe lên một tia sáng mới. Chúng cố gắng đứng lên, rồi lại ngã xuống, rồi lại đứng lên. Bằng mọi sự kiên định còn sót lại, chúng tiến về phương Bắc, theo hướng mà tôi nghĩ sẽ dẫn đến thành phố Babylon.
Chúng tôi đã tìm thấy nước. Chúng tôi đã đi qua một đất nước màu mỡ hơn, nơi có cỏ và trái cây. Chúng tôi đã tìm thấy con đường dẫn về Babylon vì linh hồn của một người tự do nhìn cuộc sống như một loạt vấn đề cần giải quyết và sẽ bắt tay vào giải quyết chúng, trong khi linh hồn của một kẻ nô lệ sẽ chỉ biết rên rỉ: Một nô lệ thì có thể làm gì chứ?”
“Thế còn anh, Tarkad? Dạ dày trống rỗng có làm cho tâm trí anh sáng suốt ra không? Anh có sẵn sàng chọn con đường dẫn đến lòng tự trọng của bản thân không? Anh có dám nhìn thế giới dưới màu sắc thật của nó không? Anh có thực sự muốn trả nợ không? Chỉ cần anh có quyết tâm, bất kể số nợ có lớn tới bao nhiêu, anh cũng sẽ trả được và một lần nữa trở thành người đàn ông đáng kính trọng ở Babylon.”
Mắt chàng trai rơm rớm nước. Anh vội vã quỳ xuống nói : “Ông đã chỉ cho tôi con đường, tôi có thể cảm nhận được linh hồn của kẻ tự do đang trào dâng trong mình.”
“Nhưng ông đã làm gì khi trở về hả Dabasir?” Một người nghe thắc mắc.
“Có chí thì nên”, Dabasir trả lời, “Tôi có quyết tâm nên tôi đã tìm ra cách giải quyết vấn đề. Trước tiên, tôi đến gặp tất cả những người tôi mắc nợ và cầu xin họ kéo dài hạn nợ để tôi có thời gian trả. Hầu hết họ đều vui vẻ chấp nhận. Một số thì chửi rủa, nhưng cũng có những người đã tạo cơ hội để giúp đỡ tôi, những cơ hội mà tôi đang thực sự cần. Người đó là Mathon, người cho vay vàng. Ông ta biết tôi từng dẫn lạc đà ở Syria nên chỉ cho tôi đến với Nebatur, một người buôn lạc đà vừa được nhà vua đặt hàng mua về cho ngài những đàn lạc đà tốt nhất phục vụ cho chuyến đi của ngài. Tôi đã vận dụng mọi kiến thức về lạc đà để giúp ông ta. Dần dần, tôi có thể trả nợ từng đồng một. Đồng thời, tôi cũng có thể ngẩng cao đầu và tự coi mình là một công dân đáng kính giữa những người khác trong thành phố.”
Dabasir quay sự chú ý trở về với thức ăn của ông ta, “Kauskor, đồ ốc sên !” Ông ta gọi lớn để người trong bếp có thể nghe thấy. “Thức ăn nguội cả rồi. Bưng lên thêm thịt nướng nóng hổi cho tôi đi. Thêm cả một phần to cho Tarkad, con trai người bạn cũ của tôi nữa, anh ta rất đói rồi và sẽ ăn cùng tôi.”
Câu chuyện về Dabasir, người buôn lạc đà của Babylon kết thúc ở đó. Ông đã tìm lại được tâm hồn của mình khi nhận ra một chân lý vĩ đại, được những người thông thái làm theo từ rất lâu trước cả thời đại của ông.
Chân lý ấy giúp rất nhiều người thoát khỏi nghịch cảnh, có được thành công và sẽ tiếp tục giúp thêm bất cứ ai có thể nắm bắt, thực hành được sức mạnh ma thuật mà nó đem lại. Sức mạnh ấy dành cho bất cứ ai có thể đọc được câu thần chú:
Có Chí Thì Nên