Suốt dọc đường ta dừng lại nơi cô, con người chiều nay đang nhìn cảnh bên ngoài mà chẳng thấy nó.
Đi qua thành phố. Hai hoặc ba điểm mốc trong bản kiểm kê: nhà hát Charnier, Giáo đường, rạp chiếu bóng Éden, tiệm ăn Tàu cho người Da trắng, Le Continental khách sạn đẹp nhất thế gian. Và dòng sông ấy, điều diệu kỳ mê hoặc ấy, bao giờ cũng vậy, cả ban ngày cả ban đêm, trống vắng hay đông đảo ghe thuyền, tiếng gọi, tiếng cười, tiếng hát và đông đảo chim biển bay ngược lên tận đây, từ cánh đồng Cói.
Người Hoa mở cửa trước khi cô gõ. Anh mặc tấm áo choàng đen ban đêm. Họ ở lại nơi họ đang đứng. Anh cầm lấy chiếc cặp của cô, anh ném nó xuống đất, anh cởi áo quần cho cô, nằm xuống đất dọc theo người cô. Rồi chờ đợi. Chờ đợi. Chờ đợi nữa. Nói thật khẽ, “Đợi nhé”.
Anh đi vào đêm đen của thân thể cô bé. Ở lại đó. Rên rỉ vì ham muốn điên cuồng, bất động, nói thật khẽ, “Nữa… đợi nhé…”.
Cô trở thành vật dụng của anh, âm thầm bán mình cho riêng anh. Chẳng còn họ tên nữa. Dâng hiến như đồ vật, đồ vật bị cướp đoạt, bởi riêng anh. Bị chiếm hữu, sử dụng, thâm nhập, bởi riêng anh. Đồ vật đột nhiên vô danh, một cô bé chẳng có bản sắc nào khác ngoài cái bản sắc là thuộc về anh, là tài sản của riêng anh, chẳng có từ ngữ để gọi tên điều ấy, tan trong anh, hòa vào một tính phổ biến cũng mới hình thành như thế, cái tính phổ biến từ thuở khai thiên lập địa được mệnh danh sai lầm bằng một từ ngữ khác, đó là từ mất phẩm cách.
Ta thấy họ sau đó, nằm dưới đất vẫn ở chỗ cũ. Trở thành những người tình trong tác phẩm.
Giường trống trải không người. Đôi tình nhân vẫn nằm. Phía trên họ, quạt máy đang quay. Mắt anh nhắm lại. Anh tìm bàn tay cô bé. Anh tìm thấy nó, giữ nó trong tay mình. Anh bảo, “Tối qua anh đã đến một nhà thổ để làm tình thêm lần nữa… với em… anh không thể… anh đã bỏ đi”.
Thinh lặng. Cô hỏi, “Nếu cảnh sát bắt gặp chúng ta…”, cô cười, “em còn rất xa tuổi thành niên…”.
“Có lẽ anh sẽ bị bắt giữ hai hoặc ba đêm… anh không biết rõ. Cha anh sẽ nộp tiền, sẽ chẳng nghiêm trọng đâu.”
Đường phố Chợ Lớn. Các trụ đèn thắp sáng trong ánh hoàng hôn. Bầu trời đã mang sắc thiên thanh buổi tối, ta có thể nhìn trời mà mắt không chói bỏng.
Bên rìa trái đất, vầng dương sắp lụi tắt. Nó lụi tắt.
Trong căn hộ độc thân.
Đêm đã xuống. Bầu trời mỗi lúc càng thêm xanh lam, rực rỡ. Cô bé nằm xa người Hoa, phía vòi nước, duỗi mình trong làn nước mát của bồn. Cô kể câu chuyện đời mình. Người Hoa nghe từ xa, lơ đãng. Anh đã ở chốn khác rồi, anh đã nhập vào nỗi đau là yêu cô bé này. Anh không biết rõ cô kể những gì. Cô toàn tâm toàn ý ở trong câu chuyện mình đang kể. Cô bảo anh rằng cô thường hay kể câu chuyện ấy, và người ta không nghe cô thì cô cũng chẳng cần. Cô bảo: Ngay cả anh, anh không nghe, cũng chẳng sao.
“Anh không nghe cũng chẳng sao. Thậm chí anh có thể ngủ. Đối với em kể câu chuyện này là để về sau viết nó ra. Em không nhịn được. Sẽ có lần em viết cái đó: Đời mẹ tôi1. Bà đã bị sát hại như thế nào. Bà đã mất bao năm trời như thế nào mới tin rằng họ có thể cướp toàn bộ tiền dành dụm của ai đó và sau đấy không bao giờ tiếp bà ta nữa, đuổi bà khỏi cửa, bảo rằng bà điên, rằng họ không quen biết bà, cười nhạo bà, làm cho người ta tin rằng bà bị loạn trí ở Đông Dương. Và mọi người tin như vậy và đến lượt mọi người thấy hổ thẹn khi giao thiệp với bà, em sẽ nói lên cả điều này nữa. Ròng rã nhiều năm gia đình em không còn gặp gỡ người Da trắng. Những người Da trắng, họ xấu hổ vì gia đình em. Mẹ em, bà chỉ còn vài người bạn mà thôi. Bỗng chốc, quanh mình là sa mạc.”
1 Lời đánh cuộc đã được giữ đúng: Đập ngăn Thái Bình Dương.
Thinh lặng.
Người Hoa, “Chính điều này, khiến em muốn viết cuốn sách đó…”.
Cô bé, “Không phải hoàn toàn do điều này. Không phải do thất bại của mẹ em. Chính do ý nghĩ rằng những kẻ ở sở địa chính sẽ không chết hết cả đâu, sẽ có những kẻ vẫn còn sống, chúng sẽ đọc cuốn sách ấy và chúng sẽ chết vì đọc nó. Mẹ em, bà bảo, ‘Mẹ hãy còn nhìn thấy ngày hôm đó, ngày đầu tiên, mẹ tưởng đấy là ngày đẹp nhất của đời mình. Mẹ đã đem đến toàn bộ tiền mẹ dành dụm trong một túi xách nhỏ, mẹ còn nhớ, mẹ đã đưa nó cho các nhân viên địa chính. Và mẹ đã cảm ơn họ. Cảm ơn vì đã bán cho tôi lô đất tuyệt diệu giữa núi và biển ấy’”.
“Về sau, khi nước dâng lên lần đầu, họ bảo rằng họ chưa từng nhìn thấy bà bao giờ ở sở địa chính Kampot, chưa bao giờ hết, bà chưa bao giờ đề nghị tậu đồn điền, chưa bao giờ hết. Kể đến điểm này trong câu chuyện của mình thì bà mẹ khóc và bà bảo bà biết là mình sẽ khóc vì nó cho đến khi chết và bà vẫn luôn xin lỗi các con nhưng bà không thể làm gì được để chống lại sự bất lương của lũ da trắng này ở thuộc địa. Bà bảo, ‘Thế rồi sau đó chúng còn viết cho toàn quyền Cao Miên rằng mẹ đã hóa điên, rằng phải đuổi mẹ về Pháp’. Thế là, thay vì chết, sau đó, bà lại bắt đầu hy vọng. Ba năm trời bà hãy còn hy vọng. Điều ấy, thì bọn em là các con bà, bọn em không thể nào hiểu được. Và đến lượt bọn em nghĩ là mẹ điên, nhưng không bao giờ nói với mẹ. Bà lại bắt đầu mua những thân cây đước để củng cố những con đập. Bà vay mượn tiền. Bà còn mua đá để củng cố những bờ dốc dọc các ruộng mạ.”
Kể đến chỗ này bao giờ cô bé cũng khóc.
Thế rồi nước biển dâng lên.
Thế rồi bà từ bỏ.
Chuyện có lẽ kéo dài bốn năm, mọi người không còn biết rõ lắm nữa. Thế rồi điều đó xảy ra: Chuyện kết thúc. Bà từ bỏ. Bà bảo: Kết thúc rồi. Bà bảo là bà từ bỏ. Thế rồi bà làm điều đó. Bà ra đi.
Đồng ruộng bị thủy triều tràn ngập, các con đập bị cuốn trôi.
Thửa ruộng trên cao, bà cho các gia nhân, cùng với ngôi nhà gỗ và đồ đạc.
Cô bé mỉm cười. Cô xin lỗi. Nhịn khóc nhưng vô hiệu. Cô khóc.
“Em vẫn chưa tập cho mình quen được với cuộc sống ấy của mẹ mình. Em sẽ không bao giờ có thể.”
Người Hoa bắt đầu lắng nghe tất cả những gì cô bé kể về câu chuyện. Anh để cô lại một mình, xa xăm. Cô, anh đã quên cô.
Anh đã nghe câu chuyện về bà mẹ.
Thinh lặng. Cô bé lại nói, “Bọn em còn đi tới đó một hoặc hai lần mỗi năm, vào kỳ nghỉ hè, cả bốn người. Thanh, mẹ em, Paulo và em. Bọn em cho xe chạy suốt đêm. Sáng ra thì đến nơi. Bọn em cứ tưởng mình có thể ở lại, song không thể được, bọn em ra về ngay buổi tối. Bây giờ thì mẹ em bình tĩnh rồi. Kết thúc rồi. Bà lại như trước. Ngoại trừ việc bà không còn muốn gì nữa. Bà bảo rằng các con bà, chúng thật anh dũng vì đã chịu đựng những chuyện như thế. Bà, sự điên dại của bà. Bà bảo bà không chờ đợi gì nữa. Chỉ đợi chết thôi”.
Cô bé im tiếng. Cô nhịn khóc. Dù thế cô vẫn khóc2.
2 Suốt đời, thậm chí khi già rồi, cô đã khóc về sự bất công khủng khiếp mà mẹ cô là nạn nhân. Chưa một đồng xu nào từng được trả lại cho bà. Chưa một lời khiển trách nào, chưa bao giờ, từng được tuyên cáo đối với bọn lừa gạt ở Sở Địa chính Pháp.
Cô bảo rằng trên toàn thế gian đâu đâu cũng như vậy cả.
Rằng đời là như vậy.
Người Hoa nói, “Và em, em cũng tin điều ấy”. “Không. Em chỉ tin điều ấy đối với mẹ em thôi.
Em hoàn toàn tin điều ấy đối với người nghèo nhưng không phải đối với tất cả mọi người.” “Đối với Thanh, em tin điều ấy.”
“Không. Với Thanh, em tin điều ngược lại.” “Điều ngược lại là điều gì?”
“Em chưa biết. Chỉ có Thanh sẽ biết điều đó.
Anh ấy còn chưa biết là mình biết điều đó, anh ấy còn chưa biết nói lên điều đó, nhưng một ngày kia anh ấy sẽ biết nói lên và suy nghĩ điều đó.”
Về chuyện này thì cô bé tin chắc.
Người Hoa hỏi cô xem cô có đến thăm các thửa ruộng sau trận bão quyết định hay không.
Cô bảo có, họ đã đi tới đó, Paulo, Thanh và cô. Họ chẳng nhận ra được gì nữa hết bởi có biết bao nhiêu là bọt nước. Địa điểm đã thành một vực sâu bọt nước. Có những cụm bọt ở tận những cây đước ven bờ biển và cả trên núi nữa, trong rừng, cho đến trên những cây cối khổng lồ cũng có bọt.
Thinh lặng. Rồi cô bé nói, “Ngày hôm nay em đã không đến trường học. Em thích ở lại với anh hơn. Cả hôm qua em cũng không đi học. Em thích ở lại với anh để cùng nhau nói chuyện”.
Người Hoa đang đứng.
Anh ngồi xuống một chiếc ghế bành. Anh không nhìn cô nữa.
Đột nhiên điệu nhạc Mỹ vẳng đến từ hành lang các căn nhà: điệu Ragtime của Duke Ellington. Sau đó là điệu Valse tuyệt vọng đến từ chốn khác, dạo lên xa xa trên đàn dương cầm - điệu Valse này sẽ là điệu Valse khi kết thúc bộ phim. Như vậy, tuy hãy còn xa xăm, chuyến trở về nước Pháp đã đi vào căn phòng của đôi tình nhân, vào cả tác phẩm.
Cô bé và người Hoa lắng nghe điệu Valse. Cô bé bảo, “Anh ta luôn chơi vào cùng một giờ… Chắc hẳn khi đi làm về…”.
“Chắc thế. Anh ta đến ở căn nhà từ vài tuần nay. Anh nghĩ đó là một người lai.”
“Bao giờ cũng cùng một giai điệu như trong phim khi nhạc quay trở lại… và thành ra buồn bã.”
Người Hoa hỏi Thanh từ đâu đến.
Cô bảo bà mẹ đã bắt gặp Thanh trên núi cao ở biên giới giữa Xiêm và Cao Miên vào một buổi tối khi bà cùng các con trở về từ những vùng trồng hồ tiêu.
Họ nhìn nhau. Họ lắng nghe. Cô ngồi xuống bên anh. Người Hoa nói, “Anh sẽ mua các đĩa nhạc để cho sau này khi em đi sang Pháp”.
“Ừ.”
Người Hoa che mặt và nói thật khẽ, “Để cho sau này khi em chết… cũng như vậy cả”.
“Ừ.”
Họ nín lặng.
Cô đến nép sát vào anh.
Cô không hỏi gì hết.
Cô bảo, “Đúng là ta sắp từ biệt nhau mãi mãi. Ta đã quên điều đó, anh có cho là thế không?”.
“Không. Một ngày kia em sẽ về Pháp. - Anh không chịu đựng nổi. Một ngày kia anh sẽ kết hôn. Anh không thể, vậy mà anh biết rằng anh sẽ làm điều đó.”
Cô bé nín lặng. Cô như thấy hổ thẹn cho anh. Người Hoa nói, “Lại đây. Hãy nhìn anh”.
Anh ôm gương mặt cô trong tay và buộc cô nhìn anh.
“Khi nào em về Pháp? Hãy nói ngày tháng ngay đi.”
“Trước khi kết thúc năm học. Sau các kỳ thi nhưng hãy còn chưa chắc chắn. Mẹ em, bà khó đi khỏi thuộc địa lắm. Mỗi kỳ nghỉ phép bà cứ tưởng bà sẽ ra đi thế rồi bà ở lại. Bà bảo rằng lâu dần bà đã thành người bản xứ, như chúng em, Paulo và em. Rằng có rất nhiều người sống ở thuộc địa cũng giống bà.”
“Còn năm nay bà sẽ ra đi... Em biết điều đó.” “Năm nay, vì bà đã xin cho con trai cả của bà hồi hương nên bà sẽ nghỉ phép để thăm anh ấy. Bà không thể sống thiếu anh ấy, không thể nào...”
Thinh lặng. Người Hoa nói, “Suốt đời anh sẽ ở lại nơi này: Sa Đéc. Ngay nếu anh có đi du lịch, anh cũng sẽ luôn quay về đây. Bởi vì tài sản là ở đây. Với anh, việc ra đi là không thể. Trừ phi có chiến tranh”.
Cô bé nhìn anh. Cô không hiểu. Anh nói, “Anh đã đính ước từ nhiều năm nay với một cô gái Mãn Châu”.
Cô bé mỉm cười. Cô bảo cô biết điều này.
“Em biết rồi. Thanh đã bảo em. Tất cả mọi người đều biết, ở đâu đâu thì các cô hầu nhỏ cũng là người kể những câu chuyện của gia đình.”
Thinh lặng. Và cô bé nói, “Em có thể nghe hàng trăm lần những câu chuyện của anh về Trung Hoa”.
Cô cầm lấy hai bàn tay anh và áp chúng vào gương mặt mình, cô hôn chúng. Bảo anh kể cho cô nghe.
Mắt chỉ nhìn vào cô, cô bé Da trắng, người Hoa kể một câu chuyện của vương quốc Trung Hoa.
“Cô ấy cũng như anh, đã được gia đình chỉ định, từ khi còn nhỏ. Khi đó anh mười bảy tuổi, cô ấy lên bảy. Ở Trung Hoa là như vậy, để tránh cho sản nghiệp của các dòng họ khỏi gặp những rủi ro của số phận, hai gia đình phải giàu ngang nhau... Điều này đã thâm căn cố đế trong phong tục Trung Hoa, mọi người không thể làm khác được nữa.” Anh nhìn cô. “Anh làm em chán.” “Không.”
“Ngay lập tức người ta có con cái. Có những trách nhiệm. Những tình nương. Rất nhanh chóng người ta không còn thay đổi được gì trong cuộc sống của mình nữa. Đàn ông Trung Hoa, dù không thật giàu, đều có tình nhân. Các bà vợ biết điều đó. Họ yên tâm theo kiểu này: Khi các ông chồng có đàn bà ở bên ngoài, bao giờ họ cũng quay về nhà.”
“Không chỉ ở Trung Hoa…”
“Có đấy, chỉ ở Trung Hoa điều đó mới được xác lập chắc chắn đến thế.”
“Anh sắp kết hôn với người vợ chưa cưới ấy.” “Ừ”, nói trong một tiếng nức nở. “Không phải với em. Không bao giờ với em. Không bao giờ. Ngay cả trong kiếp khác.”
Cô khóc trong những bàn tay anh. Vì nhìn thấy anh khóc, mà cô khóc.
“Nếu ta không quen biết nhau như thế này, nếu em là một cô gái Trung Hoa giàu có, chắc chuyện sẽ diễn ra như thế. Vậy thì có lẽ cũng giống nhau thôi…”
Anh nhìn cô. Anh không trả lời. Anh bảo, “Có lẽ là giống nhau, anh còn chưa biết được. Hãy lại gần anh”.
Cô lại gần anh trên giường, cô nằm duỗi mình. Cô sờ trán anh. Cô bảo, “Người anh nóng”.
Anh lấy hết sức lực nhìn cô. Anh bảo, “Anh rất xúc động khi kể cho em những chuyện kia… chính vì thế đấy.”
Anh dùng hai bàn tay phơi trần gương mặt cô bé ra để nhìn thấy nó trọn vẹn. Cô bảo, “Em những muốn giá mình kết hôn với nhau. Muốn mình là những người tình kết hôn”.
“Để làm cho nhau đau khổ.” Cô không mỉm cười nữa.
Cô khóc. Và đồng thời cô nói lên điều có lẽ sẽ là hạnh phúc, “Phải, để như thế đấy, để làm cho nhau đau khổ nhiều hết mức có thể. Và trở lại sau đó”.
Thinh lặng. Cô nói, “Qua các cô hầu nhỏ ở Sa Đéc, vợ anh sẽ nhanh chóng biết chuyện của chúng mình. Và cô ấy sẽ đau khổ. Có thể cô ấy biết rồi cũng nên. Cũng chính vì nỗi đau khổ đó, do em gây ra cho hai người, mà anh và cô ấy sẽ kết hôn với nhau”. “Ừ.”
Anh bảo, “Các gia đình chờ đợi đứa con đầu lòng, người thừa kế… ngay từ tối đầu tiên… Về điều đó anh rất sợ… mình không thể”.
Cô không trả lời. Cô bảo, “Sau đó hai người sẽ đi du lịch vòng quanh thế giới”.
“Ừ. Đúng thế. Lúc đó em hãy còn ở trên con tàu Pháp.”
Thinh lặng. Cô hỏi, “Trên tàu ở đâu…?”. “Ở Ấn Độ Dương. Ngoài khơi Colombo.” “Tại sao lại ở đấy…?”
“Anh đã nói hú họa.”
Thinh lặng. Và người Hoa nói, “Ta sẽ đi Long Hải. Anh đã thuê một phòng ở Ngôi nhà gỗ của Pháp”.
“Khi nào?”
“Khi nào em muốn. Tối nay. Đêm nay.” “Còn trường trung học?”
Người Hoa đột nhiên xưng hô cô tôi với cô bé, “Điều ấy chẳng nghiêm trọng. Cô có bao giờ đi học hằng ngày đâu, ngay cả trước đây. Cô đi đến vườn bách thú, và hay đến đó. Tôi đã hỏi han tin tức”.
Cô bé lùi lại một chút. Cô sợ. Cô hỏi, cô gào thật khẽ, “Nhưng tại sao lại đến đấy, đến Long Hải?”.
Người Hoa nhìn cô đăm đắm và đôi mắt anh nhắm lại dưới tác động của ý nghĩ tàn khốc bị mất cô bé. Anh nói, “Anh đã bắt đầu đau khổ vì sự chia lìa với em. Anh phát điên… Anh không thể xa lìa em, không thể được, vậy mà anh sắp làm điều đó, anh biết thế”.
Anh không nhìn cô nữa. Mắt nhắm, anh vuốt tóc cô. Cô lùi lại, lùi nữa, cô đứng dậy, đi về phía cửa bên kia. Anh hỏi, “Tại sao em không ưa Long Hải?”.
“Bọn em từng đến đấy cùng cả nhà và một lần em đã sợ… kinh khủng… những con hổ, ban đêm chúng đến tắm ở Long Hải và một lần, cùng với anh thứ của em, bọn em đã nhìn thấy những dấu vết mới tinh của một con hổ, một con hổ nhỏ nhưng dù sao thì… bọn em đã bỏ chạy… sao mà sợ thế. Và rồi bãi biển hoàn toàn vắng ngắt, chẳng có gì hết, không thôn làng, không… không gì hết, không ai hết… chỉ có những người điên, những người hành khất, họ đến ăn xin ở các tăng viện…”
Cô bé nhắm mắt lại. Cô nhợt nhạt. Người Hoa đến gần cô.
“Em sợ gì hơn? Hổ hay người?”
Cô nói, cô gào lên, “Sợ người. Sợ anh. Sợ anh, người Hoa”.
Thinh lặng dài nơi anh mà bỗng nhiên cô không nhận ra nữa. Anh hỏi, “Những người ấy, họ từ đâu đến”.
“Từ An Nam. Từ những hòn đảo ở vịnh Hạ Long. Từ các bờ biển. Rất nhiều người từ nhà ngục nọ, anh biết đấy… Côn Đảo. Có cả những kẻ loạn trí, những người điên, họ đi qua đó. Cả những người đàn bà, bị đuổi khỏi thôn làng. Tại các tăng viện người ta cho họ cơm nóng và nước trà, đôi khi những người ấy họ giết một con chó lạc và đun nấu trên bãi biển và cái đó bốc mùi rất hôi suốt một trăm cây số bờ biển.”
“Những nơi ấy, cũng là con đường của các cuộc xâm lăng từ Trung Hoa.”
“Có thể. Điều này thì em không được biết. Em cứ tưởng người Hoa đã sang qua những dãy núi miền Vân Nam.”
Cô bảo là trong tất cả những người đó, đàn bà khiến cô sợ nhất. Vì họ cười đồng thời họ lại khóc.
“Họ từ đâu đến?”
Điều này, thì cô bé không biết rõ. Đến chỗ đó, cô bịa ra. Tất cả. Cô bảo là những người đàn bà nọ đến từ Ấn Độ qua đường biển… Họ trốn trong các ghe bầu… Rằng họ chẳng còn chút lý trí nào nữa, tất cả đều điên dại bởi đã sợ hãi nhiều quá, bởi con cái họ đã chết nhiều quá vì đói, vì nắng, vì rừng rú, vì những đám muỗi, vì chó dại, thế rồi vì hổ. Người Hoa bảo là có một trong những người đàn bà hành khất này ở giữa Vĩnh Long và Sa Đéc, ban đêm, người ấy vừa gào lên vừa cười, người ấy nói, người ấy hát. Người ấy gây sợ hãi.
Cô bé bảo rằng cô biết người đàn bà hành khất ấy cũng như tất cả mọi người giữa Sa Đéc và Vĩnh Long, rằng người ấy đến từ Lào, rằng những gì người ấy hát, đó là các điệu ru con xứ Lào.
Anh cười, anh bảo, “Em bịa ra… Làm thế nào mà em biết được những điều ấy?”.
Cô bé sợ. Cô có nói dối không nhỉ? Cô chẳng biết làm thế nào mà mình biết được những điều ấy nữa, cô chẳng biết liệu mình có nói dối hay không. Cô bảo, “Em cho là nhờ Anne-Marie Stretter. Bà ấy biết tiếng Lào, bà từ Lào sang, bà đã nhận ra từ ngữ Lào trong các bài hát. Một lần bà đã nói về chuyện này với mẹ em… ở Câu lạc bộ… thế đấy”.
Cô bé hát cả đoạn đầu tiên mà người đàn bà hành khất sông Hằng hát trên đường phố của khu vực Nhiệm sở, ban đêm. Cô bảo, “Anh thấy đó… em biết bài hát ru này…”.
Anh bảo điều ấy chẳng chứng tỏ được gì hết. Anh cười. Anh hỏi, “Ai kể cho em tất cả những chuyện đó về Long Hải?”.
“Mẹ em và chị Đô và cả Thanh nữa. Từ… từ xưa nay.”
“Tại sao họ lại kể cho em những chuyện đó.” “Để khiến em quan tâm thích thú, anh muốn tại sao chứ…”
“Mẹ em không đến Câu lạc bộ bởi bà xấu hổ vì anh cả em. Còn Phu nhân Stretter, thì cả mẹ em và em đều không quen… Em nói lăng nhăng…”
Cô bé bỗng gào lên, “Tất cả mọi người đều có thể gặp Phu nhân Anne-Marie Stretter. Tối nào bà cũng ở trên sân thượng cùng với các con gái bà… Anh tưởng Phu nhân Stretter là gì chứ?... Trước hết tất cả mọi người đều biết câu chuyện của bà bên nước Lào, ở Viêng Chăn với chàng trai ấy, các báo có đăng mà…”.
Người Hoa lắng nghe cô. Anh say mê cô. Cô bé kể tiếp câu chuyện, “Thế rồi em, một hôm em đã gặp bà trong một buổi học tiếng Latin ở nhà cha xứ Vĩnh Long. Cha dạy tiếng Latin cho trẻ em Pháp còn bà, thì bà đến cùng với các con gái bà. Bà hỏi cha xứ xem em là ai. Cha bảo: Con gái bà hiệu trưởng Trường Nữ học. Bà đã mỉm cười với em. Bà bảo cha xứ là em có một cái nhìn kỳ cục. Em đã nghe thấy. Em nói lại điều đó với mẹ. Ngày hôm sau mẹ dẫn em đến bác sĩ Sambuc khám để biết liệu sau này em có bị lác hay không. Mẹ đã an tâm, em chẳng lác tí nào hết…”.
“Còn tiếng Latin, em đã học tiếng đó ư?” “Đại để chút ít. Thế rồi em bỏ.”
Thinh lặng.
“Chưa bao giờ người ta cầu hôn em ư? Đó là mốt ở Sài Gòn…”
“Có đấy. Thoạt tiên thì mẹ em đồng ý ngay, sau đó em khóc, thế là bà bảo không và chuyện thành rắc rối… Người cuối cùng là một ông ở Sở Vận tải đường biển, ông ấy ít ra cũng băm lăm, băm tám tuổi… Ông ấy kiếm được rất nhiều tiền. Mẹ em đã suýt nhượng bộ nhưng em thì em bảo không, ông ấy quá to béo… quá đỏ đắn… anh xem…”
Thinh lặng. Rồi người Hoa hỏi, “Ban nãy em đã sợ ư?”.
“Ừ. Cả anh nữa.”
“Ừ.”
“Lẽ ra anh sẽ giết em như thế nào ở Long Hải?”
“Như một người Hoa. Với sự tàn ác thêm vào cái chết.”
Anh đến tìm cô gần bên cửa. Cô như kiệt sức. Anh bế cô lên giường. Cô nhắm mắt lại để ngủ, cô không ngủ. Anh ôm lấy cô trong vòng tay. Anh nói với cô bằng tiếng Hoa. Điều ấy khiến cô cười, bao giờ cũng vậy.
“Anh cũng hát bằng tiếng Hoa cho em nghe đi.”
Anh hát bằng tiếng Hoa. Rồi anh khóc. Cô khóc với anh mà chẳng biết vì sao.
Họ không nhìn nhau. Rồi cô van nài anh. Thế là anh đưa mình vào trong cô với một sự dịu dàng mà cô còn chưa biết. Rồi anh ở lại đó, bất động. Ham muốn khiến họ rên rỉ. Cô nhắm mắt lại. Cô bảo, “Hãy chiếm đoạt em”.
Người Hoa yêu cầu rất khẽ, “Khi nào biết ngày giờ ra đi, em bảo anh nhé”.
“Không.”
Cô lại yêu cầu anh nữa. Anh chiếm đoạt cô.
Cô quay người lại, nép mình vào anh. Anh ôm siết cô. Anh bảo cô là đứa con của anh, em gái của anh, tình yêu của anh. Họ không mỉm cười với nhau. Anh đã tắt đèn.
“Lẽ ra anh sẽ giết em như thế nào ở Long Hải? Hãy nói điều ấy với em nữa đi.”
“Như một người Hoa. Với sự tàn ác thêm vào cái chết.”
Cô ngâm nga đoạn cuối của câu nói như có lẽ cô sẽ ngâm một bài thơ.
Trường trung học - các hành lang đầy học sinh. Cô bé chờ đợi, dựa vào một cột trụ trong hành lang. Cô ngoảnh ra bên ngoài, một mình cô lập.
Tổng giám thị đi qua, chạm vào vai cô. Ông bảo, “Tôi cần nói chuyện với em”.
Cô đi theo tổng giám thị vào văn phòng của ông ta.
“Chuyện thế này. Chắc chắn là các bà mẹ học sinh đã cấm không cho con gái họ giao du gì với em. Em biết điều đó…”
Cô bé mỉm cười. Cô biết điều đó.
“Nhưng còn điều nghiêm trọng hơn. Các bà mẹ học sinh đã báo cho bà hiệu trưởng trường Lyautey rằng không phải tối nào em cũng về ký túc xá”, tổng giám thị hơi giận dữ, “làm sao họ biết được chuyện ấy… bí ẩn thật… Em bị bao vây bởi mạng lưới cảnh sát của các bà mẹ học sinh”, ông mỉm cười, “tại Sài Gòn. Họ muốn con gái họ cứ ở trong giới với nhau. Họ bảo - em hãy vững vàng nhé – ‘Tại sao cái con bé đàng điếm ấy nó lại theo đuổi bằng tú tài chứ? Bậc Tiểu học là để cho những kẻ đó mà’…”.
Thinh lặng. Cô hỏi, “Chính vì mẹ em mà thầy báo cho em ạ”.
“Phải. Em biết niềm quý trọng của tôi đối với bà.” (Một lát.) “Theo em thì ta có thể làm gì.”
“Thầy và em, ta có thể tiếp tục. Thầy thì tiếp tục báo cho em còn em tiếp tục không về Lyautey… Em không biết ạ… Còn thầy? “
Thinh lặng.
“Tôi, tôi không biết.”
Tổng giám thị bảo, “Bà hiệu trưởng trường Lyautey đã báo cho mẹ em…”.
“Vâng. Mẹ em hoàn toàn bất cần danh tiếng của mẹ con em… Gia đình em không giống các gia đình khác.”
“Mẹ em muốn điều gì cho các con mình?”
“Muốn các con có nơi có chốn. Để cho bà có thể chết được. Bà thì bà không biết là mình muốn điều đó.”
Tổng giám thị tiếp tục đóng vai trò của mình, “Em cũng đã vắng mặt cả ở trường trung học nữa, nhưng ở đây thì tôi đảm trách chuyện này”.
“Em đã biết điều ấy ạ.”
Tổng giám thị nhìn cô một cách thân tình. “Tôi và em, chúng ta là bạn bè…”
Cô bé mỉm cười. Cô không tin chắc vào điều đó bằng ông.
“Thật ạ?”
Tổng giám thị xác nhận, “Thật đấy”. Cô mỉm cười.
Thinh lặng.
“Năm nay là năm cuối cùng của em ở Đông Dương…”
“Vâng… có thể là những tuần lễ cuối cùng… Ngay nếu thầy hiệu trưởng yêu cầu đuổi học em, điều ấy cũng sẽ chẳng quan trọng nữa. Nhưng em biết thầy sẽ không làm thế.”
“Thầy sẽ không bao giờ làm thế đâu.”
Tổng giám thị mỉm cười với cô bé.
“Cảm ơn em vì đã tin cậy chúng tôi. ‘Giáo giới sẽ cứu Đông Dương khỏi sự ngu xuẩn của người da trắng.’ Đó là điều mà một hôm mẹ em đã nói với tôi. Tôi không bao giờ quên điều ấy.”