N
gao ngồi bệt xuống vệ cỏ nhìn mặt trời đang dần dần lặn xuống dãy núi phía Tây. Trên nền trời mênh mang, loang loãng, chỉ còn rớt lại chút nắng vàng nhợt nhạt.
Đã cuối thu. Trời se lạnh, đâu đó, gió heo may đầu mùa thỉnh thoảng lạc về từng cơn đứt quãng. Mỗi lần gió ngừng thổi, Ngao lại lắng nghe tiếng ì ầm của biển dội vào đất liền như những tiếng than ngắn thở dài của người dân chài đi biển. Biển buồn rầu vì đã qua những ngày tháng mùa hè náo nhiệt và vui nhộn.
Mới gần bảy giờ tối, vậy mà biển chỉ còn trơ ra một mình vẻ buồn, thinh lặng. Nơi cửa sông Kiến Giang phía kia cũng đơn côi, chìm nghỉm trong màn đêm tĩnh mịch. Mặt sông đặc quánh như chảo mực tàu. Trên bờ đê đắp cao, chắn không cho nước biển mặn tràn vào đồng ruộng dài như một vạch ngang làm ranh giới giữa trời và nước.
Đã hàng tiếng đồng hồ, trên bờ đê, Ngao vẫn một mình một bóng lầm lũi, dật dờ cao lêu nghêu như một dấu hỏi nguệch ngoạc, bước thấp bước cao, chậm trễ, lê trên cái dòng kẻ vạch ngang ấy.
“Mình đã hóa thành bóng ma trên bãi biển này rồi sao?” Ngao thở hắt ra, chống tay vào đùi mệt mỏi đứng lên rồi lại ngồi bệt xuống. “Thân phận người bãi biển này là vậy. Số kiếp Ngao là vậy ư? Mới hơn bốn chục tuổi đầu, Ngao biết, Ngao đã như một lão già. Chẳng những thế, Ngao đang mang trên mình một dáng thật kì hình, dị tướng.” Một người lính từ mặt trận mang bao nhiêu thương tích trở về. Sức lực còn gồng lên dầu dãi được với tháng ngày, biển cả. Nhưng cái quá khứ của cuộc chiến tranh khủng khiếp mà Ngao đã đi qua, còn ám ảnh, lẩn quất trong Ngao như bóng đêm, như những tia chớp thỉnh thoảng lại lóe lên ghê sợ. Ngao sống trong trạng thái lúc nhớ, lúc quên, lúc bơi trong màn sương lãng đãng. Mặc cảm, Ngao sống như người lẩn tránh. Tự Ngao văng mình ra khỏi cộng đồng. Tự Ngao chối bỏ, tự cắt đứt những gì thân thiện, kết dính xung quanh.
Trời đã sang tháng Chín rồi. Có lẽ, ở mảnh đất này và ở cõi đời này, chỉ còn lại thiên nhiên, còn lại cái đất quê, thói quê níu chặt đời Ngao, buộc Ngao, vùi sâu Ngao vào kiếp phận làm người. Ngao đã trốn tránh cuộc đời. Đời cũng đã bỏ quên Ngao, bỏ quên người lính đã từng bị báo tử về quê, làm lễ truy điệu trước sân đình của ba làng đất biển. Ai biết Ngao vẫn còn sống, lang bạt về đây trong thân hình dị dạng? Mặt cháy. Cằm mất. Giọng nói không còn gẫy gọn. Đau hơn nữa, cái “của quý” tạo hóa ban cho người đàn ông của Ngao đã bị dính bom, phải cắt bỏ trong một trận chiến ác liệt. Dưới mái nhà như mô đất vắng tanh, heo hút, lọt thỏm nơi xa lắc ở một miền chân sóng, một bóng người dật dờ, câm lặng… ngoài vợ con, không ai biết Ngao. Mà Ngao cũng không cần ai biết đến mình. Ngao sợ, né tránh mọi tiếp xúc. Ngao sợ những ai đó ngắm nhìn, bình phẩm, hoặc đem lòng thương hại. Hoặc, người ta kinh sợ về bộ mặt khủng khiếp của mình. Vậy còn gì khác đâu. Ngao chỉ còn biển cả ầm ì, dữ dội kia mà mến thương. Ngao chỉ còn mùa thu. Còn tháng Chín này đã trở về như bao lần trong đời với bao nhiêu kỉ niệm, hồi ức.
Tháng Chín năm nay, mùa cua rạm bắt đầu. Sau cơn bão số bốn khủng khiếp, có lẽ ông trời muốn đền bù cho những người dân khốn khó ở vùng biển này sau tai ách ông gây ra. Ơn trời, cua biển bỗng dạt về nhiều vô kể. Những con cua biển trưởng thành từ cửa sông trong mùa sinh sản đi theo triều con nước ròng ra biển. Trong bao la mênh mông của đại dương, những cuộc tình chớp nhoáng giữa những chàng cua biển lực lưỡng và những nàng cua cái đa tình diễn ra thật mặn nồng. Và kết quả là hàng triệu triệu những đàn cua con, nhỏ lăn tăn, li ti ra đời. Nhiệm vụ của cua mẹ sinh ra những đứa con duy trì nòi giống đã hoàn thành, chúng không còn bổn phận gì nữa với những đàn sinh linh ra đời nhỏ bé đó. Cua mẹ phó mặc đàn con cho đại dương sông nước. Đại dương là nơi những đàn cua con sinh ra và lớn lên đầy thử thách nghiệt ngã giữa cái nhỏ nhoi và cái vô tận của sóng biển. Sự sống còn của những lớp đàn với hàng ngàn vạn cua con phải chịu đựng biết bao nhiêu trở ngại khó khăn mà tạo hóa đã sinh ra. Khi bị hàng ngàn đợt sóng vỗ vào bờ cát, hàng vạn sinh linh bé nhỏ phải gồng mình chống trả và tìm cách sinh tồn. Vượt qua những kiếp nạn, một số sống sót được sóng xô bờ đưa ra đẩy ra vào chỗ toàn là nước. Sự may mắn ấy xảy ra ở các cửa sông.
Những con cua con may mắn ấy quý lắm, đắt lắm. Người ta bắt nó bán cho những trang trại nuôi cua biển hàng hóa. Ở đây, chúng được nuôi dưỡng một cách cẩn thận để một ngày nào đó được nằm chễm chệ trên cái đĩa của những bàn tiệc. Chúng làm cho bàn tiệc sang trọng hơn bởi màu đỏ rực của cua luộc, bởi cái ngậy cái bùi hương vị ngọt ngào mà chỉ có ở những cư dân biển cả.
Để bắt được những con cua biển nhỏ li ti, dân chài phải đi từ khi trời vừa chạng vạng tối vào những ngày nước lên. Người bắt cua làm một dụng cụ mà người ta gọi là lưới kéo cua. Đó là một tấm lưới nhỏ và may dày như màn tuyn, nó được căng bởi hai cây tre to bằng cổ tay và dài hơn một mét. Gốc tre buộc vào nhau, ngọn xòe ra như cái quạt. Độ mở của lưới có thể thả chùng xuống hoặc co ngắn lại tùy theo mức nước sâu cạn. Vạt trên mép lưới được đính những viên chì nho nhỏ vào một thanh giằng ngang khoảng một mét ở phía gốc tre thành một cái túi dài gần ba mét. Dân chài gọi đó là cái đáy lưới. Khi triều dâng người ta dầm mình ngập đến tận cổ, dùng hết sức ghìm cái lưới và đẩy nó đi nghiêng nghiêng theo dòng nước biển đổ hất vào sông. Cái đáy lưới vật vờ trong nước như đuôi một con trăn khổng lồ kéo ngửa người đem lưới về phía sau. Những con cua bị lưới đón lấy rồi trôi vào túi đáy. Có đêm gặp luồng đi của cua, lưới kéo được vài trăm con. Cứ vài giờ người ta phải đổ đáy ra thu gom cua vào một vật dụng gọi là cái nò. Cuộc đời chài lưới vất vả vô cùng. Ở miền biển, đa số thanh niên, đàn ông thì mới làm cái nghề này.
Ngao sinh ra lớn lên là chàng trai lực lưỡng, lao động chính của một gia đình ngư dân. Tháng tháng năm năm, biển cả và những kỉ niệm nước ròng nước rạc, mùa màng, thời vụ đã thấm vào máu thịt đời Ngao...
Đang mải mê buông theo dòng suy nghĩ, bất giác Ngao nhìn xuống sông. “Kìa, mặt sông sao bỗng thẫm đen lại. Chuyện gì lạ nhỉ?” Ngao có cảm giác nước sông đặc quánh, tự nhiên anh thấy nó bí hiểm và ghê rợn vô cùng.
Nhìn về đầu nguồn, nơi gần cửa biển Nhật Lệ cách chỗ Ngao không xa hình như có một chiếc thuyền đang trôi. Đúng là một chiếc thuyền đang trôi rồi... Ngao đứng cao người, dán mắt dõi nhìn vào khoảng tối. “Nhưng, là thuyền ai vậy? Thuyền ai bị tuột dây chăng?”
Ngao chợt nghĩ rồi vội vàng chạy đón đầu con thuyền đang từ từ trôi ra cửa biển.
Trong bóng đêm mập mờ, Ngao thấy rõ chiếc thuyền có mui, bơi chèo thả lỏng vật vờ đang dập dềnh trôi theo dòng nước. “Ồ. Thuyền ai đứt dây chăng? Thuyền ai? Mà, hình như thuyền không có người thì phải? Chắc chắn, thuyền của làng chài ta bị tuột dây buộc rồi...”
Ngao cuống lên, tấp tểnh chạy xuôi theo bờ để đến ngang con thuyền. “Chắc chắn trên thuyền không có người. Mình phải bơi kéo nó vào. Việc làm hữu ích đây. Ngày mai, sẽ có người đến tìm chuộc lại...”
Nghĩ vậy Ngao vội cởi hết quần áo, cuộn chúng lại với nhau bỏ lên nạng ba cây bần ở bờ sông sát bờ đê, rồi cởi hết quần áo chạy lêu nghêu lao xuống cửa sông.
Vừa ùa xuống, Ngao chợt rùng mình vì nước lạnh. Trời cuối thu, chả mấy nữa đã mùa đông rồi mà. Mặc kệ! Ngao nghiến chặt răng, nhào người bơi thật nhanh về phía con thuyền. Dân sông nước, Ngao lao đi như kình ngư, phút chốc đã bám sát mạn thuyền. Đang định nhún người leo lên, bỗng Ngao khựng lại, buông tay cho người nhẹ chìm xuống nước.
“Ồ. Trên thuyền có người. Chết thật, không khéo họ lại nghĩ xấu về mình. Ngỡ mình là kẻ trộm thì sao? Phải chuồn ngay, kẻo bị phát hiện thì khốn…”
Ngao quơ vòng tay, định bụng chuồn đi. Nhưng anh thoáng định thần lại, nghĩ. “Có người thật. Không phải chỉ một… mà hai người. Họ đang làm cái trò gì vậy?”
Vừa nghĩ, Ngao vừa quay lại, bơi rất nhẹ và bám lấy cọc chèo phía lái thuyền. Ngao cố nhô đầu lên, nhìn thật sâu vào khoang. “Ồ. Mắt mình có lẫn không? Không thể. Ngao nhìn lại lần nữa, lần nữa. Ôi. “Mục sở thị” rồi. Hai năm rõ mười nhé. Đúng là chuyện con “chuồn chuồn” mê li. Khủng khiếp...”
Ngao dán mắt vào khoang thuyền, nơi có hai người trắng ngộn, cứ mờ mờ, ảo ảo trong tiếng thở, tiếng rên.
Con thuyền mỗi lúc một tròng trành mạnh hơn. Ngao bám nhẹ vào cọc chèo lái thuyền nhìn hai thân hình trắng ngộn đang cuộn bện vào nhau như hai con thằn lằn. Rồi, tiếng thở hổn hển. Tiếng rít lên như con mèo động đực: “Ối trời ơi. Ối anh ơi. Em đã đến Thiên đàng... em lên đến Thiên đàng rồi anh ơi! Ối, anh ơi...”
Nghe tiếng rên rỉ to quá, Ngao giấu mình chìm sâu dưới nước, nhưng mắt vẫn không rời nhìn người đàn bà nhoài lên, ngồi trên bụng người đàn ông. Cặp đào tiên thổn thển đổ ra, đung đưa như hai quả bòng. Mái tóc dài xõa xuống. Tóc bờm xờm cả sau lưng, trước mặt.
Ngao cảm thấy mặt mũi mình nóng ran, máu chạy rần rần trong người. Ngao tì sát vào mạn thuyền, cả người anh bị rung lên từng nhịp, từng nhịp hưởng ứng dư ba của cuộc tình đang lên đỉnh điểm trong khoang thuyền. Người đàn bà trong cơn cuồng si, hai tay chống người lao đi lao lại như cưa gỗ. Khi mặt người đàn bà quay nghiêng, Ngao nhận ra, người đó rất quen: “Ồ. Tưởng ai, hóa ra mụ Hến “Phụ nữ”. Con mẹ Hến này ở đầu thôn một. Gớm nhỉ. Mụ Hến mắt lúc nào cũng ướt rượt, đen láy. Khuôn mặt lúc nào cũng rừng rực rừng rực, rửng mỡ. Đúng con mụ rửng mỡ. “Thèm đực” đây rồi. Tự dưng vợ chồng nhà nó giường chiếu đoàng hoàng mà lại kéo nhau ra thuyền đú đởn thế à? Nhưng, loại đĩ đực. Liệu có phải chồng? Không! Không phải chồng! Vợ chồng không thể có chuyện ấy. Thằng chồng con Hến nhỏ, hắt hiu, bệnh binh có chế độ mà bất mãn, suốt ngày say xỉn chửi vợ chửi con. Lại đen như củ thục củ tam thất kia mà. “Bồ bịch” nhố nhăng rồi. Nhưng, thằng cha này là ai? Da trắng nhởn. Người cao, to, mập nữa cơ... a, đúng con chuồn chuồn rồi, thằng cha này là Trưởng ban chính sách. Mấy lần lên xã, Ngao đã gặp, lẫn vào đâu được. Phó “phụ nữ” với trưởng “chính sách” mà cuộn nhau thì thuyền có trôi ra biển đông biển tây gì cũng bé như cái đinh nhá.
Ngao nín thở hơi dài. Dường như không kìm được nữa, anh bỗng bật lên tiếng ho. “Bỏ mẹ rồi. Xử lí sao đây?” Lập tức, trong khoang cũng lặng đi. Rồi, thằng người đàn ông vùng dậy, lao về phía đuôi thuyền vồ lấy cây sào.
- Thằng nào đấy?
- Thằng nào?
- Mày định giở trò gì hả?
Ngao chuồn nhanh xuống nước lao đi. Không hiểu thằng đàn ông chủ định đánh, hay hắn vội bơi chèo chạy trốn mà làm dữ dằn thế. Ngao vừa bơi ra xa vừa nghĩ. Bỗng thằng người nhộng trên thuyền vồ lấy cây sào. Cây sào này ngày hôm trước đã được chủ nhân lên rừng đẵn một cây tre gai đực chắc như sắt. Cây tre gai được vót nhọn như cái lao để đâm con thú. Dân sông nước ở vùng quê này vẫn dùng cây sào để chống chèo vượt cạn khi sóng to gió lớn, thuyền mắc cạn cồn cát giữa sông. Ngã ba sông Trần Xá bắt nguồn từ thượng lưu trên rừng Trường Sơn đổ ra cửa sông giáp ranh với ngã tư cửa biển Nhật Lệ. Con sông Kiến Giang bắt ngang qua với con sông rào trú, Rào Đá, Long Đại rồi đổ về cửa biển. Ở ngã tư cửa sông đổ ra biển đó có một cồn cát, cồn cát tạo thành một xoáy nước. Thuyền nào đi qua xoáy nước mà không vững lái mạnh chèo thì dễ bị chìm. Gần xoáy nước, bên bờ sông có mấy cây bần bám gốc rễ từ thời nảo thời nào. Con thuyền không lái đó mới đâm thẳng vào đấy. Khi Ngao vừa ngoi lên khỏi mặt nước đến gốc cây bần to rồi như con nhái leo lên chạc ba cây bần chẳng khác nào con vượn. Thằng người nhộng trên thuyền chăm chăm nhìn xuống mặt nước. Ánh trăng vằng vặc soi rõ thằng người nhộng dưới nước nhẫy nhụa khi tụ khi tan. Thằng nhộng trên thuyền nhăm nhăm cây sào chỉ chực chờ đâm chí tử đối thủ. Mụ Hến không kịp mặc quần áo tóc tai xõa như bóng ma trắng lốp ra đứng mũi thuyền nhìn quanh nhìn quẩn. Trên cây bần, Ngao như người bị hớp hồn quên ngay cái sự nguy hiểm, bụng nghĩ “ôi nàng tiên cá của chàng”. Nhìn theo thằng người nhộng trên thuyền không thấy gì, Hến thông minh nhìn lên cây bần. Hến chỉ tay lên cây bần nói to: “Kìa, thằng quỷ đang ở trên cây kia kìa”, Hến thất vọng vì lúc này thằng người nhộng trên thuyền càng ra sức dùng sào đâm xuống hình bóng người nhộng trên cây soi xuống dòng sông. Bất ngờ, thằng người nhộng trên thuyền trở đầu cây sào, đâm chí mạng lên chạc ba cây bần nơi thằng người nhộng đang đu trên đó. Mất cảnh giác, không tránh kịp, cây sào nhọn sắc như lưỡi lê đâm rạch từ mé sườn bên phải trượt chéo xuống vùng háng. Cái “giống đực” giả của Ngao đứt phựt. Ngao như quả sung chín lựng rơi bùm xuống dòng sông. Khi thấy đối thủ rơi xuống nước, thằng người nhộng trên thuyền kéo mụ Hến vào khoang… một cảm giác tê lạnh, buốt nhói và choáng váng. Ngao cố lấy hết sức bơi về phía bờ. Khi hai chân vừa chạm lớp bùn, Ngao mới biết toàn thân mình đang run lên lẩy bẩy. Đầu như vỡ ra. Cơn đau ở chỗ bụng dưới nhói, xót buốt lên tận óc. Ngao đưa tay xuống háng, miệng suýt xoa kêu lên. “Thôi chết. Cái “của quý” đã bị chém rách, rơi mất rồi... trời đất ơi. Trời đất ơi...”
Bây giờ thì mắt Ngao bỗng tối sầm. Sông nước quay cuồng một màu đen kịt. Cơn đau lan nhanh như một mũi xiên từ dưới xuyên qua ruột, qua gan, qua tim phổi rồi xuyên lên tận đỉnh đầu. Ngao vật mình nằm xuống. Anh đã ngất đi lúc nào không biết.
***
“Thằng nào đấy anh?” “Thằng quỷ”. “Quỷ nào... thằng chồng mụ Hiền ngoài bãi sông hử?” “Không nó thì người nào giờ này còn mò mẫm ngoài này… nào, ta tiếp tục lên giời chứ…”. Nhìn bộ dạng người đàn ông vừa cho mình lên Thiên đàng, mụ Hến cười nhạt: “Phải gió phải nước đang rũ như rọc khoai thối thế kia liệu có còn đủ sức cho con này lắc dăm ba lắc nữa không…”. “Mụ cứ lắc thoải mái đi. Nhưng chuyện hôm nay của chúng ta, thằng quỷ đã biết, phải xử lí thế nào?” “Ô hay nhỉ, lần giao ban trước, anh đề nghị cắt tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ của nhà nó chưa được thông qua, nếu nó nói ra chuyện của ta, lần này anh cứ làm báo cáo lên trên đề nghị hiện tại “liệt sĩ” đã về nhà sinh sống với vợ con thì cắt tiêu chuẩn là đúng…”. “Ừ nhỉ, có thế mà mình không nghĩ ra...” “Thế ngộ nhỡ nó không nói chuyện chúng ta hôm nay thì sao…”. Cố tình kéo dài thời gian để “rọc khoai thối” hồi phục sau những cái vuốt cái lắc của đôi bàn tay cào don cào dắt bắt còng bắt cáy rất điệu nghệ những ngày còn chưa “làm công tác”, Hến tự thưởng cho mình hôn lên bầu ngực của người giúp mình lơ lửng trên giời.
Gió Nam hây hẩy. Bờ sông vang vọng tiếng kêu bìm bịp. Triều dâng, con thuyền lững lờ trôi về bến cũ…