• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người trên đảo vắng
  3. Trang 6

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 14
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 5
  • 6
  • 7
  • More pages
  • 14
  • Sau

Chương hai

C

ó tới nửa tháng rồi, làng ven biển sôi lên tin đồn. Ở chợ. Nơi cánh đồng chỗ tụ tập đông người, nhất là những nhóm ngư dân đi biển... ở đâu, họ cũng kháo nhau cái tin.

- Này, bên ni đã biết chuyện chi chưa?

Người nghe lắc lắc:

- Chưa! Nhưng, chuyện gì vậy?

- Mũ ni che tai thật à? Chuyện tày đình.

- Con kiến trong lỗ cũng truyền nhau chuyện lạ kia mà.

- Chuyện lạ?

- Vâng. Chuyện người làng biển mình đấy.

- Người làng biển mình?

- Chớ sao nữa.

- Thật chớ. Vậy, kể đi đầu cua tai nheo thế nào, mụ?

Người kể vẻ quan trọng, giọng thầm thì:

- Mụ không biết thực sao. Cái “người quỷ” ở cồn vắng bãi biển làng mình ấy.

- Người quỷ. Tôi có nghe nhưng chưa tường mặt lần nào. Hắn làm sao.

- Làm sao á? Gái gú. Đực cái. Bị nó xẻo mất cả “chim.”

- Bị xẻo chim?

- Vâng. Bị xẻo mất toi cái “củ lẳng.” Hắn khỏa thân, nằm chết bên cửa sông Kiến Giang.

- Cửa biển làng mình?

- Chớ sao nữa. May mà bộ đội biên phòng đồn “Cửa sóng” đi tuần tra, kịp phát hiện rồi đưa vào bệnh viện.

- Cứu được chứ?

- Cứu được. Nhưng mất cha nó cái “gậy thằng ăn mày” rồi. Hết chọc ngoáy lung tung nhé.

- Cho chết. Loại “dê cụ”. Mà, sao bộ đội còn cứu hắn làm gì?

Đấy. Câu chuyện về Ngao đang được đồn thổi sau cái đêm Ngao tự cởi quần áo lao xuống cửa biển, cứu chiếc thuyền bị nghi là tuột dây trôi mất. Câu chuyện thật thế nào, ai hiểu được tường tận, thanh minh với ai? Ai tin lời Ngao nói. Rồi, người này đưa tin. Người kia bịa đặt thêm cho hấp dẫn. Lời đồn luôn có cánh cùng câu chuyện cứ truyền nhau “thằng người quỷ” đi chim gái bị thiến mất “chim” cứ mặc nhiên lượn bay trong tô vẽ, diễu cợt. Ngao đành ngậm tăm. Đành lần nữa, cay đắng mà ngậm bồ hòn vào ruột.

Bây giờ, trong mường tượng, thấp thoáng, khi tỉnh táo, Ngao chỉ nhớ, đêm ấy khi rời con thuyền có đôi cặp tình nhân đang làm trò con nhấm con nhí, bơi được vào bờ, thì trước mắt anh là trời đất quay cuồng, mắt đổ hoa vàng, cả bầu trời sẫm một màu đen đặc. Có một vạch lờ mờ của con đê giúp Ngao xác định được phương hướng. Nhưng, chịu. Ngao không thể nào đứng dậy được. Có cái gì buốt nhói móc vào bộ hạ, kéo Ngao, ghìm anh xuống mặt đất. Cố gắng chỉ có thể ngồi lên và bằng chút sức lực còn lại anh lết đi như trong bài tập “lăn lê bò toài” ngày còn ở trong quân ngũ.

Ngao lết được mươi mét đã đau hết cả người, anh gục xuống. Bên tai, trong cái ong ong đó, hình như có tiếng gọi mơ hồ: “Ngao ơi cố lên, chẳng lẽ đời mày chết dí ở đây sao? Đời mày đã bao nhiêu lần cận kề bom đạn với cái chết tại chiến trường mà vẫn sống được kia mà. Ừ. Phải sống. Ngao còn con, còn vợ quý yêu, đang mong đợi anh nhiều...”. Ngao tự nhủ tự đáy lòng mình như vậy.

Ngao lê mãi, lê mãi bò lên được đến chân đê, cố trườn lên mặt đường, tay nắm lấy bờ cỏ sương đêm ướt đẫm, trơn tuột. Cổ họng khô đặc, người mệt lả đi, hai tai ù đặc.

Người Ngao đẫm sương đêm hay là mồ hôi anh ướt vậy. Mệt quá, hai hàm răng Ngao nghiến vào nhau ken két, run cầm cập vì lạnh. Đêm vẫn đặc quánh, cái lạnh như sợi dây siết dần, siết dần vào người… bó chặt chân tay. Nó siết lên tận thái dương, bóp chặt lấy hai mắt, vật Ngao nằm xuống.

Rồi, trong đau đớn tột cùng, Ngao mê sảng thấy chập chờn loáng thoáng bóng hình áo trắng, tiếng chân bước vội vàng gấp gáp. Có tiếng nói thì thào như người bị bịt miệng. “Nát bét hết rồi. Phải cắt đi thôi. Mà dương vật đã mất. Đã phẫu thuật. Cái “củ lẳng” giả đã được làm từ bao giờ...”

Ngao nghe rõ tiếng dao kéo lách cách và đau nhói, có lúc lại rất buốt. Đau rợn và ớn lạnh. “Ôi. Ông trời còn bắt Ngao sống. Sao không để Ngao chết đi cho xong mọi chuyện đớn đau ở kiếp đời này…”

Ngao nghĩ thế. Nhưng, khi được cứu sống, Ngao lại gồng mình, chịu “nhẫn.” Ngao nhẫn nhục trước điều ong, tiếng ve. Những xì xào đơm đặt ác ý và ghê tởm. Những cái cười khinh bỉ, dè bỉu nửa miệng của mọi người nhìn mình với sự lạnh lùng của bà con xóm biển: “Thằng người quỷ”. “Tên chó dái”. “Tên dê cụ”. Loại “đĩ đực”. Rồi, dậu đổ bìm leo, tất cả những chuyện trai gái của ai đó, từ tám hoánh nào, họ đem nhau ra bờ đê, chân sóng làm trò đú đởn, bây giờ dân làng đều chụp mũ, đều quy tội cho Ngao.

Thôi, mặc đời. Ngao chỉ biết ơn trời. Biết ơn các chiến sĩ biên phòng và các bác sĩ bệnh viện đã cứu Ngao. Biết ơn người vợ của mình. Chỉ riêng vợ Ngao, người yêu thương, đáng nể luôn hiểu Ngao, tha thứ và đắp điếm cho Ngao. Thế là được…

Ngao nói thế với vợ. Nhưng, vợ Ngao nổi đóa lên mắng té tát: “Sao cây ngay lại chịu chết đứng. Sao anh lại chịu nước mắm thối. Chịu để người ta chan tương đổ mẻ lên mình. Phải làm cho rõ chuyện này.”

Làng biển này, ai lạ gì con mụ Hến lẳng lơ. Mụ đã có chồng với ba đứa con. Lão chồng bất mãn vì phải bỏ ra một mớ tiền mới chạy được suất “bệnh binh”. Phải mất tiền mới được là người có bệnh trong khi bệnh tật rề rề, tháng đôi lần đem sổ đi lĩnh thuốc. Bất mãn với chuyện xã hội thì còn có thể lí giải được chứ bất mãn với vợ với con mới khổ thân lão. Thế là lão vùi đầu vào hũ rượu, say xỉn suốt ngày để vợ theo trai đú đởn. Chồng thì tối ngày say mềm nằm bẹp, chó liếm miệng vệ sinh, vợ thì đóng bộ chải chuốt sáng chiều hai buổi cắp cặp lên trụ sở công tư công tác.

Không thể để Ngao mang tiếng không tốt. Vợ Ngao nghĩ mãi, chị bảo phải quyết làm cho rõ trắng đen. Nhất là một sớm vừa ra khỏi nhà bước tới đầu làng, vợ Ngao đã gặp đám bốn, năm người chỉ trỏ, nói móc: “Mẹ kiếp, có con vợ nào mà ngu hơn tru (tiếng Nghệ giả cầy nói rất ác, ngu chi mà ngu hơn cả con tru). Chồng theo gái bị chồng người ta bắt cắt hết giống đực rồi mà vẫn cứ thương. Mày là con tru hả?” Tức quá, vợ Ngao nghĩ: “Không để thiện thua ác được. Không thể chánh nghĩa mà thua gian tà.” Nhưng, chưa nói, vợ Ngao đã bị chồng khóa miệng. “Thôi em, cho qua đi. Không chấp mà. Định bới thối lên mà ngửi nữa ư? Chuyện này vỡ ra, tan cửa nát nhà. Vợ chồng chúng nó bỏ nhau, làm khổ lũ trẻ lít nhít. Con mụ Hến cũng cảnh khổ như em thôi. Đây biết, anh chồng mụ ta từ ngày bị sốt rét ác tính, tiêm thuốc trụ sinh trụ đỡ gì gì đó cũng mất thiên chức đàn ông… rồi mụ vợ lão trưởng ban kia nữa, mưa rừng nắng núi những ngày ở Trường Sơn sốt rét trụi cả tóc trên đầu, bây giờ người như con cá mắm. Thằng chồng thì hùng hục như thế… rồi, lại khổ bố mẹ chúng. Các bậc phụ huynh hai nhà tám chín chục tuổi đầu. Thôi, để Ngao chịu. Đừng để gia đình họ tan đàn sẻ nghé. Tội nghiệp lắm. “Nhưng mà tui không chịu được. Anh không biết tui chịu nhẫn chịu nhục thế nào đâu. Đủ rồi, tui phải mần cho ra nhẽ…”. “Thôi, vợ ơi - Ngao nói như van vỉ - em hãy nghe anh. Em nghe anh đi nhé. Mình làm phước mà. Đừng đổ thêm dầu vào lửa, gây bi kịch thêm cho hai gia đình họ nữa. Thôi để riêng anh gánh chịu, em nghe...” Thấy vợ đã nguôi nguôi nhưng còn có vẻ chưa chịu bỏ qua, Ngao đổi giọng vuốt ve: “Mình ơi! Cả thế giới có lầm tưởng anh đi chim gái, bị họ thiến cống cồng đi chăng nữa cũng không sao! Anh chỉ cần em hiểu. Chỉ cần có em và con của chúng ta là đủ lắm rồi. Còn quả đất có sập đi chăng nữa cũng chẳng sao đâu em...” Ngao nói với vợ, để riêng mình nhận về tội lỗi cho Hến và xóm làng yên chuyện. Mà xóm làng yên chuyện thật. Bởi, người đời từng nói, ai cười mãi được ba năm. Đúng thế. Nhưng, riêng với Ngao, bão gió trong anh dường như vẫn dồn lên quặn thắt. Gió giật bão rung với Ngao thật từ khi Ngao được mời lên trụ sở Ủy ban. “Thay mặt lãnh đạo, tôi thông báo để công dân Vũ Xuân Ngao biết, kể từ nay gia đình anh không được hưởng chính sách gia đình liệt sĩ. Lẽ ra gia đình anh còn phải nộp lại số tiền trợ cấp thời gian qua đã lĩnh nhưng xét hoàn cảnh hiện tại và - ông trưởng ban hạ giọng - lãnh đạo cũng biết anh là người ngay thẳng, kín mồm kín miệng. Đặc biệt bên đoàn thể phụ nữ có ý kiến không truy thu tiền trợ cấp nữa…”. “Ô hay. Thế xương máu tôi đổ ra bây giờ thành con số không à?” “Công dân Vũ Xuân Ngao nghe đây… việc liệt sĩ trở về địa phương cũng có nhiều trường hợp rồi, nhưng ở hoàn cảnh anh thì lại khác. Anh còn sống, về nhà đoàn viên êm ấm với vợ với con thì dĩ nhiên không còn là liệt sĩ. Không phải liệt sĩ thì trên cắt tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ. Anh thỏa đáng chưa… còn việc anh về không có giấy tờ chứng thương, không có quyết định giám định thương tật thì dĩ nhiên không phải thương binh. Mà này, anh nghe rõ đây - ông trưởng ban lại hạ giọng. Lần hạ giọng này Ngao phải tập trung thính giác cao độ mới nghe thấy - cùng đàn ông đàn ang với nhau, cùng cảnh phụ nữ có chồng mà như không với nhau, chúng ta nên có cái nhìn thông thoáng một chút. Lãnh đạo công tác chính sách, công tác phụ nữ đã họp rồi thống nhất, sẽ lập cho anh một sổ trợ cấp thường xuyên với gia đình anh. Có điều tiền trợ cấp này không nhiều, so với tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ hoặc trợ cấp thương tật thì có thua thiệt. Những chuyện gì anh biết anh thấy tuy anh không nói ra nhưng cũng ít nhiều ảnh hưởng đến địa phương… từ nay anh nên biết mình biết ta mà an phận làm ăn. Nếu có gì còn lăn tăn anh nói vợ lên gặp tôi… tôi sẽ tìm cách tháo gỡ…”.

***

Cuộc đời Ngao, theo lời kể của bố mẹ anh, từ thời còn mồ ma giặc Pháp đã khổ trần thân bông trái. Trong trận chống càn Cái Vịnh hòn đảo lớn nhất ở Vũng Chùa cạnh Đảo Yến, bố mẹ Ngao đã tình nguyện đi theo cách mạng. Ông bà cùng bốn gia đình nhận nhiệm vụ đi theo thuyền lái buôn, chở gạo và muối, tiếp tế cho Việt Minh. Buổi ấy, chẳng may bị lộ, tàu của Pháp truy đuổi. Đến ngã ba cửa biển Nhật Lệ, gió bất ngờ nổi lên, trời đùng đùng rung chuyển. Tiếng gió rít réo từng cơn như có hàng ngàn, hàng vạn mũi tên veo véo cùng lao đi. Sóng dềnh lên rung chuyển. Biển nghiêng ngả đảo điên như đang sắp bị lật úp ngược đến nơi rồi. Bầu trời sập xuống đặc quánh đen xì như mực bị những tia chớp loằng nhoằng, nhấp nhoáng xé toạc không trung ra từng mảng….“Giông! Giông ngông cuồng lạ nhỉ?… Trời, điên rồi. Nguy hiểm lắm đây…”.

Ông Vũ Xuân Sao cùng vợ là Lê Thị Lược đang đi trên một chuyến thuyền. Hai vợ chồng cùng với ba gia đình nhận nhiệm vụ vận chuyển hàng trong vai lái buôn hàng chuyến. Vùng biển lúc ấy bỗng ập tới một cơn giông. Đất trời như chao đảo dữ quá. Ông Sao luôn miệng gào lên, đốc thúc mọi người sẵn sàng ứng phó với những đợt sóng, những luồng gió xoáy. Mưa to gió giật nguy nan trong cơn giông cơn bão thật kinh khủng. Nhưng, cũng nhờ trận bão mà thuyền của ông Sao và ba gia đình thoát khỏi cuộc truy đuổi của giặc Pháp.

Hoàn thành nhiệm vụ, cả bốn gia đình đều được cách mạng ghi công…

Trận bão ấy đi qua. Nhưng, đang mùa bão gió, liên tiếp, lại một trận bão khác tràn về. May mà, buổi ấy, đang định vượt khơi ra biển kiếm ăn, song thuyền ông Sao còn trì hoãn ven bờ, trông chờ thời tiết.

Căn nhà tranh vách nứa của vợ chồng ông khi dựng đã cố ý cất tựa vào phía sâu hốc núi đá. Ngôi nhà lại được gông gõ buộc kĩ và ghì xuống đất bằng những cây mây cỡ to bằng cổ tay vắn thừng, vậy mà cơn mây đen bỗng ập về và bão gió giống như một mảng trời bỗng đổ ập xuống vẫn làm nó chao đảo. Gió giật, nước tạt điên cuồng ép ngôi nhà bẹp dí vào vách núi đá.

Chưa nhổ phăng được căn nhà, những ngọn gió đảo điên tìm cách luồn lách đi vào mọi ngõ ngách của giàn gông buộc trên mái lợp để rút đi từng mảng tranh tre mà ném tung lên trời cho hả dạ cơn điên, cơn bấn loạn. Mặt biển dềnh lên, sóng tung bờ vọt lên đến đỉnh đảo, chưa mưa mà nước đã xối xả xuống ào ào như thác…

Biết sức lực của con người lúc này trước biển cả điên cuồng chẳng còn nghĩa lí gì, ông Sao đành bất lực, phó mặc cho cơn giông thả sức tung hoành.

Đứng ôm cây cột giữa nhà, tiếng ông Sao có lúc gào lên như ra lệnh cho con, nhưng đều bị cơn gió nuốt chửng. Mưa tầm tã như ném đá vào mặt. Tiếng gẫy răng rắc của cây, của một mảng mái nhà đang bị bão quăng quật, xé nát. Thấy một mái bỗng đổ rầm úp chặt lên người, Ông Sao hốt hoảng nhao tới, ôm chồm lấy Ngao, đứa con trai đang thét lên sợ hãi. Ông ấn Ngao chui vào gầm giường, rồi phủ phục ôm lấy Ngao, miệng liên hồi van lạy thần linh mang phước lành cho vợ con ông được tai qua, nạn khỏi.

Chịu trận tới nửa tiếng đồng hồ, gia đình ông Sao đã gần như kiệt sức thì cơn giông mới chững lại. Ông Sao vội ngước lên ngơ ngác nhìn cánh rừng trước nhà thấy trống huơ trống hoác. Mấy ngàn cây xà cừ trồng bốn, năm tuổi giờ đổ gãy ngổn ngang. Một vài cây còn sót lại thì cũng bị gió vặn như xoắn dây thừng đến tướp toanh ra hết. Ông Sao đứng nhìn ngao ngán, tiếc của, thương mình mà suốt đêm ông không sao chợp mắt hết than ngắn thở dài. Thiên tai gieo tai vạ thật kinh khủng, con heo nái trong chuồng sắp đến ngày sinh bị trận gió bão hốt gọn tung lên trời rơi xuống đất chết tức tưởi. Thật kì lạ, heo nái tòi ra một đống chùm ruột thấy lúc nhúc lúc nhúc bầy tám con. Con trắng con đen lốm đốm cựa quậy rúc rúc tìm sữa mẹ bú trông chúng nó thật thê lương tội nghiệp. Giờ kiếm đâu ra sữa mà nuôi bầy heo con này? Nhìn cảnh tượng thấy chua chát trong lòng. Ông Sao hết đứng lại ngồi bối rối với cảnh ngộ của đàn heo như vậy cho tới lúc có tiếng gà rừng lẫn gà nhà cất tiếng gáy ran. Thằng Ngao đang mơ ngủ hai hàm răng nghiến nhau nghe như mọt đang đục khoét cột nhà sắp đổ rồi mà nó thì vẫn quơ quàng vươn tay tìm kiếm rồi rúc đầu vào nách bố. Ông Sao nâng nhẹ đầu con lên, luồn cánh tay chắc nịch vằn cuộn cơ bắp của mình vào làm gối cho con. Sao vuốt nhẹ mớ tóc xoăn xoăn tự nhiên của con và ghì đầu nó vào lòng. Mười hai năm trôi qua, đây là cái điệp khúc Sao lặp lại từng đêm niềm hạnh phúc nhỏ nhoi còn sót lại để nén sâu nỗi buồn vẫn âm ỉ như đống trấu ngún cháy trong lòng. Mắt Sao căng mọng, đăm đắm nhìn sâu vào màn đêm.

Mỗi lần đi qua trận bão, trên đất biển này, nỗi đau của Sao lại tấy lên như vết thương không bao giờ lành được. Cũng như đêm nay, khi ôm thằng Ngao bò dưới gầm giường rồi biết mình còn sống sót qua cơn giông vỡ trời, vỡ đất, Sao lại không ngủ lọ mọ thắp nén hương trong đêm, khấn vái linh hồn vợ ông và nhớ mười hai năm về trước…

Chiều ấy, những cơn gió mùa đông bắc còn rớt lại tạo nên vùng áp thấp bất đắc dĩ đột ngột giữa biển khơi. Rất nhanh, chớp nhoáng dữ dội, những cơn lốc xoáy, di chuyển không theo phương hướng nào khiến tàu thuyền trên biển không biết đường tránh nạn. Chính cơn lốc tố dữ dằn này đã dìm con thuyền của Sao, cướp đi người vợ trẻ đang mang thai rồi hất bố con Sao lên hoang đảo. Phút định mệnh diễn ra cuộc chia li đau xót ấy, bây giờ mỗi lần ngồi nhớ lại, Sao vẫn còn vảng vất cái bóng vật vờ với tiếng kêu đứt đoạn của vợ: “Mình ơi! cứu em với! Cứu em với! mình ơi!”

Nhìn bóng vợ lúc nổi lúc chìm, đang xa dần mất hút, Sao xót xa, bất lực… không biết số phận Sao cũng sẽ tan vào mây nước phương nào. May mà, có một phao do ông trời đem lại, Sao ôm chặt con cùng khúc gỗ chống chọi với giông bão, mặc đất trời đưa đẩy dạt trôi.

Sau này, dừng lại nơi hoang đảo, buộc chặt đời mình với một vùng chân sóng, chiều chiều Sao cứ ôm thằng Ngao ngơ ngác, lặng nhìn ra phía biển. Nơi ấy, sóng dềnh lên sùng sục như thể có hận thù gì với Sao. Sao chẳng nhớ, đã biết bao hoàng hôn, biết bao bình minh ôm con đứng như tạc vào chân đảo hoang vu này. Bao nhiêu đêm tiếng gọi của người vợ còn ai oán vọng về: “Mình ơi! Cứu em với! Cứu em với! Anh Sao ơi!”

Bao nhiêu đêm, Sao đưa tay dụi mắt, tự hỏi mình đang thức hay ngủ? Tiếng gọi vọng từ đâu? Tiếng gọi xoáy vào tai mình, nghe rõ lắm. Những lúc ấy, Sao vội nhổm dậy bên giường, lấy chiếc gối đè ngang người con, nhẹ nhàng lách ra khỏi nhà, đi vội xuống bậc cửa ra biển. Sao nhìn biển. Nhìn về hướng đông. Đứng từ xa nhìn lại thấy đảo hoang này có hình thù tựa như một con thuyền đầu đối đầu với sóng gió, lại giống như bàn tay giơ ra đón mọi thứ vào lòng. Ngày bị đắm thuyền, bố con Sao chỉ bám nhờ được vào khúc gỗ mong manh mà dạt về mom đảo này, thoát chết…

Nhớ lại phút biết mình sống sót, khi vừa tỉnh giấc giữa đầu mom, nhìn chân sóng bên mình, Sao lại bàng hoàng, thét lên kinh sợ. “Trời! Lược ơi! Lược ơi! Rõ ràng xác vợ Sao đây rồi. Xác vợ Sao đã theo Sao, tìm Sao về nằm bên lớp bọt rều, cỏ rả.” “Biển cả kinh sợ, hãi hùng ơi. Biển cả đã cướp đi người vợ thương yêu của Sao. Nhưng, biển cả lại dẫn linh hồn thể xác vợ Sao, tìm theo Sao về đến tận chốn này.”

Sao gào lên như bị ai đâm, ai chém. Sao ôm chầm lấy xác vợ. Sao vuốt ve, sờ nắn lên đôi mí mắt, ngón tay, từng làn da đã bị cá cua, cắn gặm tả tơi, rách nát. Sao ôm vợ, một mình vừa khóc vừa lúi cúi đào cát vùi xác vợ mình xuống góc khuất của bãi vắng, giữa um tùm cỏ dại.

Giọng Sao than vãn như đất vỡ trời tan: “Ới Lược ơi! Ới vợ ơi! Ới, em yêu thương của anh ơi! Ới trời cao đất dày ơi! Sao đời tôi khổ cực dường này. Ối Đức Phật, Thánh Thần, đức tối cao vô thượng kia, sao kiếp người thương đau là vậy. Ới Ngao ơi, đứa con trai bé bỏng của ta...”

Sau đận bị bão giông cuốn xác Lược dạt về chân sóng, Sao đổ quỵ, ngỡ không đứng dậy được. Nhưng, không thể, Sao còn Ngao, đứa con trai bé bỏng, dại dột kia. Sao phải sống, phải cắn răng gồng sức mà đứng dậy.

Chọn chỗ cồn cát cao, nhìn ra chân sóng, Sao dựng túp lều dưới một bóng cây và xung quanh um tùm là cỏ. Nhà Sao, giống như vùng biệt lập. Có lẽ, Sao là người xóm lẻ đầu tiên cắm đất làm ăn sinh sống ở đây. Xóm cồn hay còn gọi là trại lẻ nơi hoang đảo này, vắng vẻ, nằm cách xa làng biển hàng cây số đường mòn. Bố con Sao hàng ngày phơi mình trên bãi vắng kiếm ăn. Ở trại lẻ vừa qua giỗ đầu Lược người vợ xấu số mà Sao nghĩ chỉ vừa mới qua đời.

***

Một việc lại xảy ra với Sao, câu chuyện như truyền kì, cổ tích.

Một sớm, trời bỗng xanh lên cao vợi. Sau trận bão kéo dài tới hai ngày ba đêm, mặt biển bỗng bình yên đến lạ. Khi mặt trời vừa nhô khỏi mặt sóng nửa quả cầu đỏ khổng lồ, Sao cùng Ngao, hai bố con vùng dậy, lao ra bờ biển. Đang ngắm nhìn dấu vết tàn phá ghê gớm của trận bão vừa qua, Sao vỗ vai con ra lệnh im lặng:

- Có tiếng người con ạ. Hình như, ai đó đang kêu khóc, phải không?

- Vâng. Có tiếng khóc…

- Nghe kĩ xem.

- Đúng. Có tiếng người đang khóc.

- Hình như, là trẻ con thì phải.

- Vâng. Đúng rồi. Tiếng trẻ con, tiếng một cô bé gái... “Đúng. Tiếng trẻ con. Tiếng một cô bé” - nghe và phán đoán vậy, Sao để mặc con trai đứng trên bãi biển một mình, anh co chân chạy một mạch về phía tiếng khóc. Khi bước chân đột ngột dừng lại, Sao ngẩng lên nhìn. Kìa, trong hốc đá một cô bé chừng mười tuổi, tóc rũ rượi, da tím tái, môi thâm nhợt, miệng liên tục kêu lên câu gì không rõ. Sao vội lao đến ôm chầm lấy bé gái, dỗ dành:

- Kìa, cháu. Cháu làm sao? Đừng lo, cháu ơi. Có chú đây rồi mà. Ồ. Mà cháu làm sao? Làm sao cơ chứ.

Sao hỏi dồn dập, cô bé chưa hết cơn sợ hãi và chưa nói được gì. Phải ôm chặt bé, định thần cho bé qua cơn chấn động lớn, Sao mới nghe được điều bé kể. “Tên bé là Hiền. Hiền gái đầu, con một, quê vùng biển, cách cồn cát này hơn bốn mươi cây số. Bố mẹ Hiền làm nghề chài lưới. Chuyến ra khơi cách đây mấy ngày, cơn giông bất ngờ đã vùi xác bố mẹ Hiền vào lòng biển cả. Không hiểu bằng cách nào bé Hiền lại sống sót, được sóng biển đưa vào hốc đá này. Cơ sự diễn ra không còn phương sách nào khác, Sao đưa bé Hiền về túp lều cùng chung sống với mình. Những ngày sau đấy, Sao đã bỏ công tìm về tận vùng quê Hiền sinh ra để lo liệu cho Hiền về đoàn tụ gia đình. Nhưng, quê biển, nơi Hiền sinh ra không còn ai khác. Ông bà chú bác đều đã khuất núi. Anh em thân thích cũng chẳng còn ai. Hiền bơ vơ, xin được Sao chở che, cho sống chung trong gia đình như những người ruột thịt. “Có lẽ, đây là cơ duyên trời đất - Sao ôm bé Hiền tự nhủ - ông trời đã bắt Hiền trôi dạt về hốc đá này, để Sao cứu Hiền. Để Hiền buộc vào gia đình Sao một nút buộc của những người cùng chung số kiếp. Hiền là con, là cái của Sao. Là chị em với thằng Ngao, đứa con trai cút côi, không mẹ. Sao bỗng trở thành người bố góa bụa, cảnh gà trống lụi cụi nuôi con. Dưới túp lều nhìn xa giống như một gò nổi, hiện lờ mờ dưới bạt ngàn lau cỏ, Sao và hai đứa trẻ như ba con còng một to hai bé trên bờ biển vắng. Hàng ngày, ba cái bóng nhỏ li ti như ba cái chấm đen chạy lang thang trên bãi. Khi thì họ kéo lưới, đuổi còng, khi thì họ ngụp mình dưới chân sóng mò tìm cuộc đời mình trong săn tìm, đánh bắt, những mong có được cái gì để kiếm kế sinh nhai.

Sống với cảnh nghèo, vật vờ cho qua ngày đoạn tháng, chỉ biết bốn bức tường chật hẹp của túp lều với trước mặt là mênh mông sóng biển. Khi bất chợt ngước nhìn quanh mình, nhìn mùa cây thay lá, một buổi, Sao bỗng nhận ra: “Trời, mới đó mà Hiền đã tuổi trăng tròn. Đã bước vào cái tuổi mười sáu, tươi non phơi phới sức xuân.” Một lần tắm, khi thay quần áo, Sao lén nhìn và chợt dừng lại trong cảm giác lạ lùng ở sự đổi thay của Hiền, của người con gái từ lúc nào đã bước vào tuổi dậy thì, đổi khác. Hai vồng ngực Hiền căng phồng. Đôi núm vú đỏ rựng. Mắt long lanh như chứa chan biển nước. Là người bố nuôi Hiền, nhưng không phải ruột rà, máu mủ, có cái gì đó vô hình trong rung cảm của giới tính, của hai phía âm dương mang thuộc tính như ông trời vốn sinh ra nó. Có lúc, Sao bỗng thấy một tình cảm lạ lùng, không rõ rệt cứ âm ỉ cháy lên trong thẳm sâu va đập, trong cái “dục”, cái vẩn vơ suy nghĩ của mình.

Đã sáu, bảy năm trời mất vợ, Sao đã không còn và cũng đã quên đi cái mùi vị ái ân, mùi vị đàn bà. “Sao bỗng dưng hôm nay, khi bất chợt nhìn thấy Hiền, thấy sự khác biệt chỗ nhạy cảm nhất của người con gái kia, Sao lại đổ đốn ra cái trạng thái, với cái gì thật lạ kì đang trỗi lên như vậy? Không. Nhất định không...”. Sao vội vàng gạt đi cái ý nghĩ vu vơ vừa tràn tới đầu mình. Không thể như thế. Hiền là con, Hiền phải có một cuộc đời phía trước riêng nó, trong khát mong và hẹn đợi của nó.

Sao đã nghĩ chín như vậy và luôn gạt đi những gì thường mơ hồ lạc tới. Nhưng, một đêm, trên biển vắng, Sao giật mình khi Hiền, đứa con nuôi bỗng cầm chặt tay Sao, nước mắt chảy tràn, giọng run run. Hiền nói với Sao dưới một đêm trăng, ánh vàng miên man trôi trong lặng lẽ.

- Bố ơi. Con muốn... con muốn... muốn thay mẹ, muốn bù đắp và trả nợ cho bố…

- Con nợ gì?

- Một món nợ nghĩa tình…

- Nợ nghĩa tình?

- …

- Con nghĩ thế sao?

- Con... con... Hiền gục vào lòng Sao.

Sao nắm chặt tay Hiền. Còn Hiền run run không cất được nên lời. Mãi lúc lâu, khi đã ôm chặt lấy Sao, đầu tựa vào vồng ngực người bố đang dồn lên tiếng đập, Hiền mới ấp a, ấp úng:

- Trước hết, bố tha thứ cho con. Bố tha thứ cho con chứ?

- Ờ, con cứ nói.

- Con thương bố mất vợ. Thương bố côi cút một mình. Thương bố thủy chung, sống nặng tình nặng nghĩa. Đời con là của bố. Bố đã vớt con, cải tử hoàn sinh cho con từ cái chết kinh hoàng nơi biển cả. Bây giờ, con còn được sống. Con còn có mặt ở cuộc đời này là nhờ có bố. Vì có bố, bố ạ...

- Vậy là thế nào Hiền…

Sao hỏi câu ấy với Hiền. Mắt Sao sáng lên lạ lùng. Hiền như người đang bơi trong cơn say, cũng bỗng nhiên tỉnh táo, giọng nghe sáng trong, gẫy gọn hơn. Hiền bảo:

- Con xin thay mẹ Lược. Con xin làm vợ bố, được không? Con xin mang đời mình đền bù ơn nghĩa...

Là người lớn hơn Hiền tới mười lăm, mười sáu tuổi, nhưng Sao thực sự bị “sốc.” “Trời. Cái ý nghĩ gì vậy. Một cái nghĩ của Hiền, của đứa con nuôi. Của người con gái giữa bao nhiêu ràng rịt của nỗi niềm, của tình đời nặng sâu ân nghĩa”.

Phải tới hàng tháng, hàng năm trời, câu nói của Hiền cứ làm Sao như người bị vùi vào xoáy biển. Sao choáng váng. Có lúc, Sao lại lặng đi như người mất hồn. Nghĩ đến nát ngày đêm, nát cả cái đầu cứ âm âm, u u như có ong bay, gió vọng. Một buổi, trong đêm, cũng dưới bóng trăng vàng. Trăng giống như quả chín treo trước hiên nhà, Sao gọi Ngao, đứa con trai duy nhất của mình và Hiền, đứa con gái nuôi ngồi quây quần dưới manh chiếu trải trên bãi cát. Vẻ hệ trọng, giọng Sao chậm thầm thì giống như gieo từng câu, từng chữ:

- Này, Ngao. Này Hiền, này…

- Dạ, thưa bố - Ngao và Hiền cùng ngước lên nhìn như uống thấm từng lời.

- Các con... các con nghe bố nói nhé.

- Bố nói chi ạ?

- Nhưng bọn mi phải nghe...

- Thì bố cứ nói đi.

- Nhưng, bọn mi phải nghe bố. Không được chống lại. Không được chối từ. Bọn mi phải làm theo thì bố mới vui, mới yên lòng, mới thỏa nỗi niềm bố hằng mong đợi... - Sao dừng lại rồi hất hàm hỏi - hai con có nghe không?

- Dạ. Có. Chúng con nghe bố chứ. Nhưng điều gì khó nói mà bố phải úp mở đến vậy?

Rào đón, che chắn mãi, khi đẩy được Ngao và Hiền vào tới điểm nút cần buộc, Sao mới thủng thẳng nói:

- Bố muốn Ngao và Hiền, hai đứa chúng mày sẽ thành vợ thành chồng. Hai đứa sẽ ở với nhau, lấy nhau. Sẽ thương nhau, sẽ vì nhau mà sống cho trọn cuộc đời này. Hiền hơn Ngao bốn tuổi. Gái hơn trai đôi ba cái lá vàng, không sao cả. Ngao chân thành, chịu thương, chịu khó. Hiền yêu thương, quán xuyến, đảm đang. Hai đứa thương lấy nhau. Ông trời buộc rồi. Bố nghĩ, ông trời đã run rủi, chắp se từ buổi cho con Hiền sống sót, cho bố gặp con, đưa con từ hốc đá về sống dưới mái nhà này. Đã hơn bảy năm trời, bây giờ, ông trời đã dẫn các con đi về bờ bến đó...

Sao nói khá dài. Nói vòng vo xuôi ngược đủ điều về lẽ đời, về mối quan hệ khá riêng, có khi là dị biệt ở làng biển này giữa mối tình của Sao, của bố con nuôi, của hai anh em Hiền Ngao, người sống trong ngôi nhà nhưng không cùng ruột rà, máu mủ.

Buổi ấy, trong căn nhà với câu chuyện hệ trọng được người bố đặt ra, Sao phải trả lời Ngao và Hiền bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu kẽ hở của cái nghĩ còn thiếu trống, hoặc khó gỡ hoặc còn nhiều đắn đo, trăn trở, cả nhìn ra miệng luỡi người đời. Cuối cùng, khi Ngao và Hiền đã ngồi sát vào nhau, ôm chặt lấy nhau, thề thốt cùng nhau, theo lời nguyện của người bố, ông Sao mới yên lòng. Ông ùa tới, ôm lấy hai đứa. Ông khóc, nước mắt trào ra đầy mặt:

- Là người bố, trước linh hồn mẹ Lược. Trước linh hồn hai ngôi “mộ gió” ngoài biển cả xa kia, người sinh thành ra Hiền, bố xin cầu nguyện và chắp se cho hai con thành vợ, thành chồng, nghĩa trăm năm phu phụ…

Nói với Ngao và Hiền chừng đã đến điều. Đêm ấy, Sao dẫn Hiền và Ngao ra ngôi mộ người vợ, ông thắp nén hương rồi bảo Hiền và Ngao quỳ xuống. Ông cũng quỳ hai đầu gối và gục đầu xuống cát, kêu trời :

- Con lạy uy linh thiên địa. Lạy tả Nam Tào, hữu Bắc đẩu. Ngọc hoàng vị chủ, tứ phủ công đồng. Lạy biển cả vô lượng, uy linh. Tấu lạy linh hồn mẹ Lược sống khôn, chết thiêng... con mong các chư vị phù hộ, độ trì cho hai đứa Ngao Hiền, vốn nặng sâu tấm tình huynh đệ. Từ nay nên gia thất, vợ chồng. Từ nay trọn nghĩa phu thê bách niên giai lão...

Khấn xong đôi dòng trước mộ, ông Sao khóc. Hiền và Ngao cũng sụt sịt khóc theo. Quá khuya, ba người mới lặng lẽ quay về. Trước khi bước vào nhà, ông Sao kéo Hiền đứng lại, giọng thật trầm và nhỏ:

- Bố cảm ơn Hiền, Hiền nhé. Bố cũng là đàn ông. Bố quý Hiền, yêu Hiền nhiều lắm. Nhưng, con yêu thương lấy Ngao, Hiền ạ. Con yêu Ngao, lấy Ngao bố mới vui, mới thực sự yên lòng. Bố đã nguyện thề với Lược, đã thầm hứa và làm được điều này trước linh hồn một người vợ đã khuất... non tháng sau, kể từ buổi tự làm lễ “ông Tơ bà Nguyệt” cho hai đứa Hiền Ngao, một chiều, ông Sao gọi hai con về thông báo:

- Ngày kia, bố lên huyện tập trung rồi. Bố đi đâu hở bố? Sao đột ngột vậy.

- Đi bộ đội. Bố tình nguyện gia nhập đội quân thường trực mà.

- Bố đi lính. Bố bỏ chúng con ở lại một mình ư?

- Không lo. Bố đi đánh giặc cứu nước mà. Với lại, bố vui đấy. Bố yên lòng vì các con đã trưởng thành, khôn lớn...

Buổi ấy, tiễn đưa người bố lên đường, Ngao và Hiền đi bộ cùng ông Sao lên tận dốc đê. Khi bóng người bố lẫn nhòa vào khoảng không xa lắc, khuất dần giữa bạt ngàn cây cỏ, hai đứa mới quay gót trở về túp lều tít tận vùng chân sóng. Bóng Hiền và Ngao in tròn vo theo từng bước lặng trầm.