T
hế là, Ngao đã theo bước người bố trở thành một chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngao xung phong đi bộ đội để đánh giặc, trả thù cho bố, trả thù cho quê hương, đất nước.
Ngao lên đường, mặc bộ quân phục màu xanh, đeo ngôi sao năm cánh trên chiếc mũ đội đầu. Ngao xa Hiền, xa biển, xa tấm lưới, con thuyền với túp lều bên bờ biển vắng.
Khi giặc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại, đem đạn bom bắn phá dữ dội miền Bắc. Lúc ấy, cả miền Trung, rồi đất Quảng Bình, quê Ngao, đâu đâu cũng biến thành chảo lửa.
Không ngày nào, Quảng Bình quê hương Ngao không diễn ra cảnh bom rơi, đạn nổ. Xóm làng bị lửa bom thiêu đốt, cháy trụi.
Chia lửa cùng đồng bào miền Nam ruột thịt, một nửa nước đang đứng đầu chiến tuyến. Ngày ấy, Ngư Thủy, Quảng Ninh (lúc đó gọi là huyện Lê Ninh), khối đoàn thể phụ nữ Ngư Thủy đã phối hợp cùng các lực lượng phòng không, chiến đấu, bắn rơi chiếc máy bay thứ một trăm của Mỹ.
Chiến công rộn vang nổi như cồn. Hậu phương thi đua với tiền phương. Ngao xung phong vào mặt trận phía Nam trong bối cảnh cả đất nước đang sục sôi những ngày đánh giặc. Ngao nhanh chóng trở thành Đảng viên cộng sản do anh đã dũng cảm chiến đấu. Hai lần, đơn vị đã làm lễ “truy điệu” sống Vũ Xuân Ngao.
Lần thứ nhất, bên dốc núi nằm sát cung đường mới mở, Ngao xung phong một mình đi tháo bom nổ chậm để phục vụ chiến dịch đường 9 Nam Lào đang gấp gáp mở ra. Một mình Ngao phá nổ sáu quả bom từ trường nằm rải rác bên bìa rừng. Lần đầu thoát chết. Ngao bị sức bom văng ra, tung lên trời rồi nằm chết dưới gốc cây cháy trụi. Lần thứ hai, với kinh nghiệm đã được trải nghiệm và thử thách, Ngao lại giơ tay xung phong, xin đi đầu, nguyện một lời “quyết tử.” Lần này, Ngao lãnh trọn quả bom nổ chậm, hất Ngao xuống khe núi.
Buổi ấy, cả đơn vị vọng lên tiếng thét:
- Ngao chết rồi.
- Ngao chết rồi.
- Đồng chí Ngao đã anh dũng hi sinh, các đồng chí ơi...
Giữa tiếng kêu thảm thiết, khi tiếng đạn bom vừa ngớt, cả đơn vị nhanh chóng xông lên. Khi đồng đội chạy đến bên Ngao, thì “Ngao chết thật rồi.”
- Ngao chết thật rồi ư?
- Thưa, Ngao chết thật rồi.
Có tiếng khóc nghẹn ngào và tiếng kêu yếu ớt:
- Ngao chết thật rồi. Nhưng. Mà... thủ trưởng ơi. Ngao còn sống. Ngao vẫn còn sống. Ngao vẫn còn tiếng thở đây nè...
Một người ghé sát tai vào mũi, nghe tiếng thở của Ngao đang hắt ra rất mỏng.
“Ôi. Ngao vẫn còn sống thật. Nhưng, lửa đã cháy xém, gương mặt Ngao mang vết bỏng, nom sợ hãi vô cùng...” ngay sau trận đánh này, Ngao nhanh chóng được đưa về bệnh viện tiền phương rồi chuyển ra Trạm điều dưỡng ở tuyến sau, hậu phương.
Ngao được phép tranh thủ về thăm nhà sau khi bệnh khỏi, và rời Trạm điều dưỡng Sư đoàn. Lần ấy, chỉ hai ngày tranh thủ được phép về nhà thăm vợ. Gặp Hiền. Ở túp lều biển vắng. Thương nhau quá, khát nhau quá. Nỗi khát giống như hạn hán đã trải qua nghìn ngày khô nỏ, Ngao chỉ quẩn quanh nằm ôm Hiền, thơm Hiền rồi vội vã trở về đơn vị. Ai dè, phút “mây mưa” chớp nhoáng, lần ấy, Hiền mang bầu đẻ ra cô con gái. Đất biển, nghề chài lưới Hiền đặt tên cho cô con gái thật nôm na. Hàu. Cô gái Vũ Thị Xuân Hàu.
Hiền sinh Hàu trong cái vịnh khi Hiền đang đi bắt hàu và ghẹ cùng với bốn người ở xóm chài.
Hiền đau bụng và rất nhanh, Hàu được đẻ rơi ngay trong vòm vịnh Trần Xá trong lúc máy bay Mỹ đang trút xuống từng trận bom ác liệt. Hiền nuôi con, ẩn nấp trong hang đến một tháng trời. Khi mẹ tròn con vuông, Hiền mới chuyển về khu sơ tán an toàn hơn.
Ở Quảng Bình, ngày tháng đạn bom trên một vùng tuyến lửa vẫn như một chảo rang.
Ngày Hiền và Ngao gặp nhau và đoàn tụ bất ngờ chỉ có một lần ấy, Ngao không ngờ, Ngao, chàng “lính chiến” giỏi thật, một lần “khai hỏa” mà đã có ngay “thị mẹt” đẹp gái, xinh xắn ra đời. Thế nhưng cuộc đời quá trớ trêu, đã mấy lần tử thần “tính sổ” nhưng Ngao vẫn chưa đến ngày tận số. Ngao vẫn không chết được. Là người lính đi giữa cuộc chiến tranh. Ngao và trăm nghìn đồng đội khác, có ai kịp nghĩ cho mình, dù chỉ chút riêng tư. Phía trước là trận đánh. Phía sau là con đường vừa thoát ra “cửa tử.” Cái chết luôn rập rình trước mặt. Sống và chết chỉ cách nhau sợi chỉ vô hình.
Ra viện, về đơn vị. Ngao lại tiếp tục theo trung đoàn vào Nam, vùi mình vào những cuộc chiến mới.
Rồi, trận thử thách thứ hai, thứ ba, thứ bao nhiêu, không biết nữa. Tại trận đánh Quảng Ngãi, khi ngồi vào mâm pháo, làm một pháo thủ giáp mặt với những cuộc đánh trả. Lần này, Ngao bị thương nặng quá. Ngao lại được chuyển ra tuyến ngoài giải phẫu do bộ hạ đã mất.
Khổ nỗi, trận đánh ấy, cả đội pháo của Ngao toàn thương binh, bệnh binh an dưỡng vừa mới điều trị trở về. Nhưng, tất cả đều nguyện thề, còn một hơi thở cuối cùng cũng chiến đấu.
Trận đánh ấy, đơn vị của Ngao hạ được chiếc máy bay M79. Pháo đánh phục kích, bắn cháy sáu xe tăng của địch.
Vũ Xuân Ngao được phong tặng Dũng sĩ diệt Mỹ. Cả đơn vị hoan nghênh Ngao chiến đấu dũng cảm và mưu lược.
Nhưng cũng trận ấy, đến những trận cuối, đơn vị pháo của Ngao bị máy bay địch oanh tạc mạnh quá, lực lượng ta ít, một chiến sĩ ngắm máy bay bị hỏng mắt. Đồng chí chỉ huy bị cụt một tay. Đồng chí ngồi cầm đòn quay cụt mất một chân. Các đồng chí của Ngao hi sinh gần hết, chỉ còn lại Vũ Xuân Ngao bị mất “bộ hạ”, mất thiên chức của người đàn ông. Ngao bị bom vùi, hất xuống thác nước không ai tìm thấy.
Phải tới ba bốn ngày, sau khi đoàn thanh niên xung phong chi viện chiến trường mới tìm thấy Ngao. Buổi ấy nghe họ kể lại mọi người vẫn còn hú vía.
Bắt đầu là tiếng kêu của cô gái thanh niên xung phong:
- Chúng bay ơi. Gì thế kia? Nom kìa, khủng khiếp chưa?
- Ôi. Trời. Gì vậy nhỉ?
- Tiếng quạ kêu ghê quá mày ạ.
- Ờ, tiếng quạ.
- Có xác người chết chăng?
Trải nghiệm nhiều ở chiến trường, các cô gái thanh niên xung phong nhận biết, ở đâu có quạ, cú mèo kêu là ở đó có xác chết hay người bị thương. Biết vậy, một cô gái cứ soi nhìn ngược xuôi rồi hét lên:
- Ruồi xanh...
- Trời. Ruồi xanh chúng bay ơi...
- Ruồi xanh giống như đám mây đen đặc vậy.
Cô gái chạy đến gần, rồi tiếng cô lại thét lên lần nữa:
- Xác chết chúng bay ơi. Có một xác người chết.
- Trời. Một anh lính. Anh này còn sống. Vẫn thở khò khè đây này…
- Một người lính trẻ quá.
- Mau cứu người ta đi.
- Mau lại cứu anh bộ đội, bay ơi.
- Nhưng, làm thế nào bây giờ?
Nhiều tiếng xì xào. Có một lời phán quyết đanh thép:
- Còn làm thế nào nữa. Đứng ngây như phỗng ỉa cả à? Mau bẻ cành cây, đốt lửa xung quanh. Chúng bay tập trung hết lại đây. Tất cả cùng xua đuổi bọn ruồi xanh, cho chúng bay đi hết…
Đám ruồi như chiếc nong sơn thẫm một màu xanh óng ánh bị đốt nóng và xua đuổi. Người ta cứu được anh lính, đó là Ngao. Bấy giờ, thân xác Ngao có chỗ đã nát tươm. Nhiều chỗ mưng mủ, thối. Ngao được đưa về một trạm cấp cứu. Không một mẩu giấy tờ. Không biết cả tên Ngao. Không biết cả đơn vị người lính vừa bị thương. Chỉ còn một cái xác đang thoi thóp là Ngao vừa chuyển gấp về trạm cấp cứu.
Ngao mang trên mình khá nhiều thương tích. Một bên mặt bị vạc chéo một mảng. Da cháy sạm. Dương vật bị cắt bỏ. Từ chàng trai đẹp có tiếng ở một vùng quê biển, bây giờ nom Ngao như một “con ngáo” kinh sợ.
Ngao đã đi qua bao nhiêu trạm cấp cứu, phẫu thuật không rõ. Các bệnh viện, y bác sĩ đã chữa lành, thực ra là chữa ổn định cho Ngao các di chứng của vết thương. Người ta đã lắp cho Ngao một “khí cụ giả”.
Có điều, từ trạm cấp cứu này, đến viện quân y điều trị kia, Ngao chỉ còn trong mình cái giấy xuất viện. Giấy của đơn vị nào gửi tới, không! Giấy chứng nhận thương tật, không! Từ bệnh viện đến bệnh viện rồi tìm về đơn vị nào, Ngao cũng không biết nữa.
Thậm chí, có lần từ bệnh viện được giới thiệu về đơn vị thu nạp quân nhân, giữa đường, cơn đau thần kinh tái phát, Ngao không biết ai đó đã đưa Ngao từ cơn bất ngờ mê sảng, trở lại một trạm cấp cứu nào đó.
Cơ thể bị suy nhược. Tâm trí bất an. Đầu óc buốt nhức. Trí nhớ không còn. Lúc nào Ngao cũng như người mộng du. Khi tỉnh, khi bơi trong mây mờ lãng đãng.
Với thực trạng của Ngao, lẽ ra Ngao phải được đưa về trại thương binh, hay trại nuôi dưỡng tập trung nào đó. Ngao đủ tiêu chuẩn được hưởng chế độ đãi ngộ của người thương binh có công với đất nước.
Song, từ mặt trận trở về, không ít những người lính cũng rơi vào hoàn cảnh như Ngao, họ phải gánh chịu nhiều bi kịch. Ngao cũng vậy. Giấy tờ thất lạc. Đơn vị cũ mất tin. Ngay chính Ngao cũng không biết rằng, ở làng quê, đã hai ba lần nhận giấy báo tử gửi về, hai ba lần họ làm lễ truy điệu cho Ngao, người chiến sĩ đã anh dũng hi sinh vẻ vang cho sự nghiệp dành lại nền độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Không hiểu đơn vị nào đã đưa xe chở Ngao về tập kết ở đâu? Ai giúp đỡ Ngao dọc đường lang thang, bệnh tình, cơ nhỡ? Trong trạng thái lúc nhớ lúc quên Ngao đã lần mò thế nào đó để đôi chân cuốc bộ dẫn Ngao về được căn lều có người vợ thương yêu “ngự” trên bờ biển vắng?...
Có tới ba bốn tháng trời, Ngao nằm liệt ở nhà. “Tủi mừng quá đỗi” Hiền vợ Ngao đã khóc lên trong niềm vui đoàn tụ. Hiền thắp hương, vái bốn phương trời, “Trời ơi. Ngao ơi. Anh vẫn còn sống thật ư? Thật là Ngao hay ma quỷ nào về đày đọa Hiền thêm nữa. Ngao đã hi sinh ở mặt trận rồi mà. Người ta đã ba lần báo tử, ba lần làm lễ truy điệu Ngao rồi...”
“Trời đất ơi. Quỷ thần hai vai ơi. Con đội ơn Người. Con ngàn lần cắn cơm cắn cỏ ơn Người. Vũ Xuân Ngao đã về đây. Chồng con đã về đây. Bố của bé Hàu yêu thương đã về đây. Người “là của” mà. Nhà con có phúc. Nhà con khổ đau cay đắng nhiều rồi. Ngao không chết. Con ơn trời. Ngao không chết. Người đã trả về cho chúng con người chồng, người bố yêu dấu một đời”...
Từ cõi chết còn đem xác về được đến nhà mình, dần dần, hình như Ngao được lành lại từ vết thương trong cõi hồn đến da thịt bên ngoài. Được Hiền suốt ngày lo thuốc thang chạy chữa Ngao đã khỏe lại, trí nhớ được hồi phục dần. Khi thấy Ngao đã khỏe, vui tươi rồi đòi ra biển, nối lại cái nghề xưa cũ, giúp vợ con kiếm kế sinh nhai, Hiền xua tay, sẽ sàng ngăn lại. Hiền thủ thỉ với chồng:
- Anh khỏe rồi. Anh phải quay về đơn vị chứ. Anh chịu trắng tay ư? Hoàn cảnh anh sẽ có đủ chế độ chính sách dành cho người thương tật. Người có công với nước...
Hiền nói câu ấy và bàn tính với Ngao không phải một lần. Nhưng, lạ chưa. Lần nào Ngao cũng chối từ, vẻ ngại ngần, e dè nữa.
Ngao buồn, thở dài, ngao ngán. Anh bảo vợ. “Ngao sợ lắm rồi. Ngao còn vác được cái xác kì hình, dị tướng trở về xó xỉnh này là bảy mươi đời “nhà Ngao” còn phúc đức nhiều đấy. Ngao không dám “trương” cái mặt ma quỷ này đi đâu nữa, dù là ngã ba làng. Dù là gặp lại một người bạn bè, xưa cũ. Ngao làm sao dám xông vào các cửa? Mà đến cơ quan nào? Về đơn vị nào? Biết những ai còn sống? Ai có thể chứng nhận cho mình. Giấy tờ không, một căn cứ xác minh không có. Ngao biết, Ngao là đối tượng, có thể được hưởng chế độ cả người nuôi dưỡng mình là đằng khác. Nhưng, đi làm giấy tờ thủ tục để có được chính sách kia Ngao thấy mình giống như người làm cái việc giơ hai tay lên trời, mà kéo trời rơi xuống.
Ngao còn mang chuyện nghe được từ một buổi phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam về bài Bút kí mang tên “Thủ tục để làm người còn sống” của nhà văn Minh Chuyên. Ngao bảo, đấy, chứng cứ rành rành đấy. Người lính mang tên Trần Quyết Định, ở Thái Bình, quê lúa! Định đã có giấy báo tử rồi, nhưng bỗng dưng trở về. Mấy năm trời lang thang khi nhảy tàu, khi ngủ giữa đường, ăn vạ nằm vật. Trong tay mang giấy tờ có hàng trăm con dấu chứng nhận đỏ chót, gõ cửa các nơi, nhưng không ai công nhận cho Định để làm được thủ tục rằng, Định vẫn là người còn sống...”
Thế là chịu. Ngao đành với thân phận mất mát, thiệt thòi. Hiền vợ Ngao phận đàn bà con gái biết đi đâu, cầm theo bằng chứng gì mà kêu cho chồng. Hai lí do chứa cả hai yếu tố hệ trọng đều bị đóng cửa, cản đường... người lính, người thương binh hạng nặng Vũ Xuân Ngao đành như người chết dí, nằm ẩn mình nơi túp lều vắng vẻ.
Ngao không giao du, không xuất hiện với xóm làng. Hàng ngày, lúc nào ra khơi bám biển, Ngao đóng vai một bóng hình khác. Ngao luôn có một tấm khăn màu quấn che nửa mặt. Dáng to con, nhanh nhẹn Ngao đã trở lại cái khỏe khoắn của con người vùng biển trước sóng gió, đãi đằng. Hoặc chỉ đêm về hay chỉ khi nào đã chui mình vào túp lều riêng rẽ, chỉ riêng Hiền, riêng vợ con mới biết được gương mặt thật của Ngao.
Ngao sống như lẩn tránh, như trốn chạy đất trời này. Đã ba lần Hiền ngọt nhạt với Ngao:
- Anh này - Hiền bảo - anh phải đến Ủy ban báo cáo chứ. Họ nghi anh đào ngũ thì sao. Anh mang thương tích, khác xưa rồi, họ có nghi vấn gì thì chứng cứ đang sờ sờ trên da thịt anh đây. Với lại, anh còn sống với em, với con, sống trên đất này cơ mà. Đất có Thổ công, sông có Hà bá. Anh về quê rồi anh phải đến địa phương trình diện họ...
Ngao nghe lời Hiền. Nghe mãi. Ngao thấy đúng. Nhưng, không hiểu sao, Ngao ngại ngần, không muốn phải đi làm một điều gì không thích, nó nặng nề như đeo đá vào người. Song, cuối cùng một chiều Ngao đã một mình lẽo đẽo cuốc bộ đến văn phòng Ủy ban nhân dân xã.
Trước khi ra khỏi nhà, Ngao lẳng lặng gắt lên vô cớ. “Vớ vẩn. Thật lắm trò. Rách việc! Mà sao cái kiếp phận đời tôi nó khổ đau đến vậy…”