• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nhịn khô
  3. Trang 26

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 25
  • 26
  • 27
  • More pages
  • 112
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 25
  • 26
  • 27
  • More pages
  • 112
  • Sau

8.3. Cơ chế axit-hóa nội môi: khủng hoảng nhiễm toan thứ nhất và thứ hai

Để phương pháp nhịn cho hiệu quả trị liệu tốt, cần theo dõi một số giai đoạn nhất định. Giai đoạn đầu tiên là “kích ứng thức ăn”, kéo dài 2-3 ngày đối với nhịn ướt và 1-2 ngày đối với nhịn khô. Giai đoạn này gây áp lực lên cơ thể và chủ yếu kích ứng vùng dưới đồi tiết nhiều loại chất tác động đặc biệt đến các tuyến nội tiết nhằm hỗ trợ cơ thể chuyển sang chế độ tồn tại không nước và thức ăn. Sau khi bắt đầu nhịn được 24 tiếng, tuyến yên đột ngột tăng tiết hoóc-môn tăng trưởng và somatropin. Dữ liệu gần đây cho thấy hiện tượng này có thể là lý do khiến cơ thể trẻ hóa khi nhịn khô. Đồng thời, hoóc-môn tăng trưởng kích hoạt hoóc-môn glucagon ở tụy, có tác dụng tăng cường phân giải glycogen trong gan để cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể. Nhịn khô cũng giúp thải độc thông qua các tác động có lợi lên tuyến giáp.

Giai đoạn hai là giai đoạn tăng cường axit hóa nội môi, thường kéo dài từ 2 đến 4 ngày. Ngay khi ngừng nạp nước và thức ăn, cơ thể bắt đầu tiêu thụ các nguồn dự trữ và mô thứ cấp, dẫn đến phụ phẩm dần tích lại, khiến cho độ pH của nội môi cơ thể vọt tăng theo hướng axit hóa, ngay cả khi các chỉ số axit hóa không vượt ngưỡng an toàn sinh lý.

Sự axit hóa khi nhịn là cơ chế sinh lý đầu tiên và quan trọng nhất kích hoạt một chuỗi những cơ chế trị liệu khác vốn thường bị vô hiệu hóa do chế độ ăn thông thường. Nội môi cơ thể bị axit hóa dẫn đến quá trình tự tiêu mô. Thực tế, trong môi trường axit, một số thực bào và enzyme được kích hoạt để phá hủy những mô yếu và mọi yếu tố ngoại lai. Các quá trình liên quan đến tự tiêu dẫn theo một loạt cơ chế tự thải độc của cơ thể nhằm loại bỏ độc tố, những mô yếu và biến đổi do nhiễm bệnh. Phân giải mô khiến tất cả chất thải đọng bên trong chúng được giải phóng và đào thải khỏi cơ thể, đồng thời các mô đã biến đổi bị tiêu diệt. Sự axit hóa nội môi và hoạt động tăng cường của thực bào giúp cho hệ vi sinh của cơ thể được tái cân bằng.

Trong giai đoạn axit hóa, các tế bào cơ thể đồng hóa cac-bon đi-ô-xít và ôxy từ không khí, nhờ đó giúp cố định lượng cac-bon đi-ô-xít hòa tan trong máu theo nguyên lý quang hợp – quá trình tổng hợp tốt nhất của tự nhiên. Bầu không khí ta hít thở trở thành một môi trường dinh dưỡng. Nói cách khác, nhờ tế bào tăng cường đồng hóa cac-bon đi-ô-xit kết hợp với sự tiêu thụ mạnh ni-tơ từ không khí mà tạo nên các điều kiện tối ưu cho sự sản xuất axit nucleic, protein và các chất hoạt tính sinh học chất lượng cao khác vốn rất cần để duy trì hoạt động bình thường ở người. Tức là nhờ thực hành nhịn khô mà ta dùng cac-bon đi-ô-xit và ni-tơ trong không khí làm nguyên liệu sản xuất ra protein để duy trì hoạt động của cơ thể. Nhưng có một câu hỏi nảy sinh: đổi lại ta mất gì? Chà, hãy nhớ lại cơ chế của thực vật. Chúng lấy năng lượng từ mặt trời và nhờ đó cũng biến cac-bon đi-ô-xit và ni-tơ trong không khí thành các loại muối khoáng và hợp chất hữu cơ. Con người cũng có khả năng tương tự, chúng ta có thể dựa vào các nguồn năng lượng tự nhiên và năng lượng vũ trụ để tồn tại, dù bình thường những trường hợp này rất hiếm. Hiện nay, chúng ta biết rằng chỉ có vài người không ăn uống mà vẫn sống14. Khi cơ chế này khởi động tức là cơ thể đã chuyển sang chế độ sinh tồn hoàn toàn bằng dinh dưỡng nội sinh, đảm bảo tổng hợp triệt để các amino axit và các hợp chất sinh học khác. Khi nhịn khô, nhiều cơ quan nội tạng và hệ thống của cơ thể được nghỉ ngơi về mặt sinh lý nên có cơ hội phục hồi các bộ phận và chức năng bị hư hỏng.

Nhịn khô kích hoạt quá trình phân hủy mạnh các mô nhờ cơ chế tự tiêu và sự phục hồi cấu trúc cùng chức năng của các cơ quan tiêu hóa. Các quá trình này kích thích chuyển hóa nói chung, và thực tế cho thấy khi chúng ta thực hiện ăn uống lại, chúng giúp cải thiện tiêu hóa toàn diện. Khi nhịn khô, các chức năng tự vệ của cơ thể được cường kiện cả ở cấp độ tế bào lẫn trên toàn cơ thể, khiến cho cơ thể đề kháng tốt hơn hẳn trước các tác nhân gây bệnh nội sinh và ngoại sinh. Tất cả các cơ chế sinh lý nói trên hợp lại sinh ra hiệu ứng tái tạo và trẻ hóa mạnh, thể hiện đặc biệt rõ trong giai đoạn sau khi ngừng nhịn (sau 21 ngày từ ngày kết thúc nhịn khô).

Do vậy, trong khi nhịn khô, quá trình axit-hóa nội môi cơ thể tăng tốc cực nhanh và theo quan sát thường đạt đỉnh ở ngày nhịn thứ 2 hoặc thứ 3. Cơ chế như sau: khi mới nhịn khô, cơ thể vẫn còn đường dự trữ (glycogen) nên sẽ đem ra sử dụng cho đến cạn kiệt (thường xảy ra trong ngày nhịn đầu tiên). Sau đó, các axit phụ phẩm của quá trình tiêu hóa nửa vời chất béo (axit butyric, acetone) bắt đầu tích lại trong máu, làm tiêu tốn nguồn dự trữ kiềm, sinh ra các biểu hiện: đau đầu, buồn nôn, mệt toàn thân, lưỡi ngày càng trắng, lưỡi và môi khô, cảm thấy bựa trên răng, hơi thở có mùi như mùi aceton, da khô và tái nhợt, cảm thấy đói và khát rõ rệt. Cảm giác mệt toàn thân là do sự tích tụ chất độc trong máu, giai đoạn này bệnh nhân có thể thấy nóng trong, vì cơ thể đang kích hoạt các cơ chế trung hòa chất độc. Nhưng ngay khi các thể ceton bắt đầu được sử dụng, nồng độ của chúng dừng tăng. Thể ceton rất giàu năng lượng nên đóng vai trò như một loại năng lượng để khởi động quá trình tổng hợp các amino axit mới, hướng đến tái tạo mô. Quá trình tái tạo mô có thể gây đau dữ dội nên người thực hiện cần chuẩn bị tinh thần.

Trong các giai đoạn nhịn khô đầu, trạng thái khủng hoảng nhiễm toan có thể xảy ra vào ngày thứ 3, thứ 4 hoặc thứ 5, thậm chí ngày thứ 2 kể từ lúc bắt đầu. Khủng hoảng đến càng sớm thì kết thúc càng nhanh, càng còn nhiều thời gian để tái tạo và phục hồi. Khủng hoảng axit và đỉnh axit hóa xảy đến đồng thời, nên tất cả các bệnh mạn tính đồng loạt trở nặng. Có thể hiểu bệnh phát càng nặng thì khả năng chữa khỏi dứt điểm càng cao, ngược lại nếu phát bệnh yếu có nghĩa các cơ chế do nhịn kích hoạt đang tập trung giải quyết các vấn đề khác quan trọng hơn. Trong trường hợp thứ hai, sau một thời gian nên nhịn lại để đảm bảo diệt tận gốc các mầm bệnh tồn đọng. Sau khi bệnh bị “trốc rễ” nhờ sự axit hóa, các nguồn lực đề kháng trước đó tập trung hóa giải bệnh giờ được giải phóng nên “rảnh rang” hơn. Vậy nên có thể kết luận: nếu cơ thể không qua được cơn khủng hoảng nhiễm toan đầu tiên thì sẽ không kích hoạt được quá trình chữa lành các bệnh mạn tính và gia tăng đề kháng.

Giai đoạn ba của nhịn khô là giai đoạn “bù đắp” hay “thích nghi”, thời lượng tùy vào cá nhân người nhịn. Trung bình, giai đoạn này bắt đầu từ ngày nhịn thứ 5 và kết thúc vào ngày thứ 8. Người nhịn sẽ thấy tâm trạng dễ chịu hơn, bớt mệt mỏi, khó chịu. Những chuyển biến tích cực này có thể diễn tiến theo một đồ thị hình sóng. Người nhịn cũng hết hẳn đói, và có thể cảm thấy khát hơn. Khoảng thời gian này dài hay ngắn tùy vào lượng mỡ đọng trong cơ thể, và kết thúc khi xuất hiện đợt khủng hoảng nhiễm toan thứ 2, kéo dài từ ngày nhịn thứ 8 đến ngày thứ 11.

Giữa đợt khủng hoảng đầu và đợt thứ hai, cơ thể bắt đầu tích trữ sinh lực. Trong cơn khủng hoảng, các bệnh có thể phát tác và trở nặng, tinh thần và sức khỏe suy sụp, người nhịn mất sức, mất ngủ, và thường bị sốt – các triệu chứng này cho thấy phương pháp nhịn bắt đầu “nhổ rễ” bệnh.

Nếu ở hai giai đoạn nhịn đầu, tự tiêu mô là phương tiện duy nhất để cung cấp dinh dưỡng, thì trong đợt khủng hoảng axit thứ hai, cơ chế này về cơ bản trở thành “nhà phẫu thuật” tự nhiên. Do vậy cần phải trả qua cả hai đợt khủng hoảng thì mới đạt tác dụng trị liệu hoàn chỉnh. Có thể nói, cơn khủng hoảng đầu “cắt chân” còn cơn khủng hoảng thứ hai “nhổ rễ” bệnh. Muốn hiểu quá trình phân hủy các khối u và cấu trúc bệnh trong cơ thể người nhịn, cần hiểu rõ cơ chế tự tiêu, vốn thường bị các nhà sinh lý học bỏ qua dù rất phổ biến trong tự nhiên.