Ngoài xơ vữa động mạch, huyết áp cao cũng có thể có liên quan đến các quá trình ngộ độc nội sinh. Khi phân tích quá trình hình thành xơ vữa động mạch, chúng ta đã nói rằng các độc tố chỉ hòa tan được trong chất béo. Tuy nhiên, cũng có độc tố hòa tan trong nước được hình thành và tích tụ trong cơ thể. Nhìn chung, nước là thành phần chính trong các dịch vận chuyển của cơ thể (huyết tương, bạch huyết, dịch não tủy, dịch mô). Độc tố hòa tan trong nước chủ yếu được xử lý ở thận.
Thật vậy, rất dễ vận chuyển chúng đến thận ở dạng tự do hoặc liên kết rồi loại bỏ chúng cùng với nước tiểu sau khi lọc qua màng thận đặc biệt. Có vẻ điều này xảy ra trong cơ thể khỏe mạnh. Cơ chế đào thải nhiều nội độc tố đa dạng này đã được kiểm chứng qua quan sát lâm sàng trong những năm gần đây. Sự tăng số lượng phân tử nước tiểu cỡ vừa ở bệnh nhân nhiễm độc nội sinh nhẹ hoặc trung bình và sự phát triển các bệnh khác nhau ngăn cản hoặc giảm tốc độ tích tụ độc tố trong máu. Tuy nhiên, người ta lưu ý rằng nếu nồng độ nội độc tố trong máu tăng mạnh thì thận sẽ đào thải chúng cùng nước tiểu chậm đi.
Ban đầu, dữ liệu này gây ra một chút hoang mang. Tại sao cơ thể từ chối một cơ chế thải độc hiệu quả như vậy? Các nghiên cứu và thí nghiệm sâu hơn đã cho phép phần nào làm sáng tỏ chuỗi sự kiện diễn ra sau đó. Khi nội độc tố tăng đều hoặc tăng mạnh, chúng sẽ tích tụ trong các cấu trúc của hệ bài tiết thận. Cơ quan vốn mang trách nhiệm thải độc này trở thành mục tiêu của chúng. Độc tố phá hủy thận, khiến nó bắt đầu suy giảm chức năng – cường độ thải độc giảm đi. Theo chúng tôi, một trong những triệu chứng của suy giảm chức năng thải độc (tức là chức năng thận) có thể là tăng huyết áp.
Hãy cùng giải thích chuyện này. Thận là cơ quan thải độc đặc biệt của cơ thể, các cấu trúc của thận tăng cường quá trình “bắt” độc tố khi độc tố nội sinh gia tăng, một phần độc tố này có thể được chứa trên màng lọc và tích tụ trong biểu mô ống. Màng lọc của thận hoạt động gần giống như một bộ lọc tiêu chuẩn. Muốn cho thận hoạt động hiệu quả, phần bề mặt của nó nhất thiết phải có điện tích âm. Điện tích này góp phần ngăn chặn các phân tử huyết tương máu rò rỉ qua màng lọc, các phân tử này cũng mang điện tích âm và chủ yếu gồm các protein trong máu có trọng lượng phân tử tương đối thấp như albumin, nhờ đó mà ngăn ngừa hiện tượng mất protein không cần thiết trong quá trình tổng hợp nước tiểu. Điều thú vị ở đây là trong trạng thái bình thường, hầu hết các phân tử máu cần thiết ở người là các hạt mang điện tích âm. Khi lượng nội độc tố tăng, đặc biệt là các chất có trọng lượng phân tử trung bình mang điện tích dương, quá trình lọc bắt đầu tăng tốc. Tuy nhiên, khi lượng độc tố thải ra ngoài tăng, các hạt tích điện dương sẽ tích tụ trên bề mặt màng lọc ngày càng nhiều, khiến hiệu năng lọc giảm đi.
Một cơ chế thải độc khác của thận là cơ chế đào thải bằng cách tích cực bắt giữ độc tố nhờ các tế bào bề mặt (biểu mô) của ống thận, sau đó vận chuyển đến màng siêu lọc chảy qua ống thận. Tương tự như cơ chế thải độc qua thận ở trên, sự tích tụ có chọn lọc các độc tố trong cấu trúc tế bào của hệ thống thải độc bằng thận sẽ dẫn đến tổn thương thận theo cơ chế thứ hai. Thận không thể xử lý nổi lượng công việc, nên bị suy nhẹ. Thông thường, các thay đổi mang tính bệnh lý cần được can thiệp y tế nghiêm túc. Người ta lưu ý rằng ở bệnh nhân mắc các bệnh khác nhau, khi tình trạng tiến triển tốt thì lượng nội độc tố thải ra trong nước tiểu có chiều hướng tăng, tức chức năng thải độc của thận đang dần phục hồi.
Bạn có thể băn khoăn những vấn đề trên thì liên quan gì đến huyết áp. Khi hiệu năng lọc của thận giảm, cơ thể buộc phải tìm nguồn dự trữ bổ sung. Thật vậy, áp lực đào thải chất độc không hề giảm mà còn tăng không ngừng. Dường như điều này là do cơ chế tăng áp suất lọc được kích hoạt. Áp suất lọc là sự chênh lệch áp suất giữa khoang nội mạch và khoang để lọc nước tiểu, và phụ thuộc vào huyết áp. Do vậy, cơ thể tăng huyết áp để bù đắp phần nào cho tình trạng suy thận khi đang có nhiễm độc nội sinh, và kết cục là cao huyết áp.
Trong những trường hợp này, bác sĩ có thể chẩn đoán sai bệnh cao huyết áp nếu không khám tổng quát mà chỉ tập trung vào các triệu chứng chính, do cao huyết áp khi ấy chỉ là hậu quả, còn nguyên nhân của nó lại mang cái tên khác là nhiễm độc nội sinh. Nếu chỉ định uống thuốc giãn mạch thì sẽ không giải quyết tận gốc bệnh mà chỉ chữa triệu chứng.