• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Những điều chúng ta làm vì yêu
  3. Trang 10

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 36
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 9
  • 10
  • 11
  • More pages
  • 36
  • Sau

Bảy

A

NGIE ĐI THEO CON ĐƯỜNG CHẠY DỌC BỜ BIỂN ĐẾN RÌA THỊ TRẤN. BÊN TRÁI cô, Thái Bình Dương dường như tăng tốc cho một trận bão mùa thu. Sóng trắng xoá đánh vào bờ cát màu xi măng, khiến cây cối ngả ngiêng về phía đất liền. Bầu trời một màu xám thép, và gió thổi qua những cành cây dọc bờ biển và đập vào kính chắn gió của cô. Trời mưa nặng hạt đến nỗi cô phải đặt cần gạt nước ở tốc độ cao, vậy mà cũng chẳng ăn thua gì.

Trong hẻm Azalea, cô rẽ trái và thấy mình trong một con phố nhỏ, hẹp đã từng có thời được lát đá. Giờ thì ổ gà nhiều hơn đường nhựa. Chiếc xe của cô lảo đảo trên con đường gập ghềnh như một người say.

Nhà Hỗ trợ láng giềng nằm ở tận cùng của con đường xơ xác này trong một ngôi nhà kiểu Victoria màu xanh lam nhạt, đối lập với màu sắc phôi phai của những ngôi nhà lưu động tạo nên phần còn lại của khu dân cư. Trong khi trên hàng rào của hầu hết các ngôi nhà khác đều treo biểnCoi chừng chó dữ ở phía trước, ở đây, tấm biển đơn giản ghi Chào mừng.

Cô lái xe vào bãi đỗ xe trải sỏi, ngạc nhiên thấy có nhiều ô tô và xe tải đã đỗ ở đây. Còn chưa tới mười giờ sáng Chủ nhật, thế mà chỗ này đã đông rồi.

Cô đỗ xe cạnh một chiếc xe bán tải tồi tàn màu đỏ có hai cửa màu xanh và một giá để súng bên cửa sổ. Cầm lấy chỗ đồ quyên góp – thức ăn đóng hộp, đồ vệ sinh cá nhân, cùng với một vài thẻ tặng gà tây từ cửa hàng thực phẩm trong thị trấn – cô đi theo con đường trải sỏi đến cánh cửa ra vào sơn màu tươi sáng. Một chú lùn bằng sứ nhoẻn cười với cô từ góc hiên nhà.

Mỉm cười, cô mở cửa và bước vào không gian huyên náo.

Toàn bộ tầng dưới ngôi nhà đầy người trò chuyện và đi lại. Vài đứa trẻ con tụ tập gần cửa sổ, chơi trò xếp hình. Phụ nữ với khuôn mặt mệt mỏi, và nụ cười tả tơi ngồi dọc tường, điền vào những bảng biểu kẹp trên tấm bìa. Ở góc đằng xa, hai người đàn ông đang lấy đồ ăn đóng hộp ra khỏi thùng và đặt lên sàn.

“Tôi có thể giúp gì được chị?”

Mất một lát Angie mới nhận ra rằng người ta đang nói với cô. Khi hiểu ra, cô mỉm cười với người phụ nữ vừa lên tiếng. “Tôi xin lỗi. Ở đây thật bận rộn.”

“Như một rạp xiếc. Sẽ như thế này cho đến hết kỳ nghỉ lễ. Dù sao, chúng tôi cũng hy vọng như vậy.” Người phụ nữ cau mày nhìn Angie, gõ gõ chiếc bút vào cằm. “Trông cô rất quen.”

“Gái thị trấn thường như thế mà.” Cô bước vòng qua chỗ đồ chơi trên sàn và ngồi xuống đối diện với người phụ nữ. “Tôi là Angie Malone. Trước kia họ của tôi là DeSaria.”

Người phụ nữ đập tay lên bàn, làm bể cá sóng sánh. “Dĩ nhiên rồi. Chị tốt nghiệp cùng năm với Mira. Chị là Dana Herter đây.” Chị chìa tay ra.

Angie bắt tay chị.

“Bọn chị có thể giúp gì em nào?”

“Em sẽ ở lại nhà một thời gian...”

Khuôn mặt hồng hào của Dana bỗng xuất hiện những nếp nhăn trĩu nặng như trên mặt chó Shar pei. “Bọn chị có nghe nói về chuyện ly dị của em.”

Angie cố gắng để tiếp tục mỉm cười. “Dĩ nhiên là chị có nghe rồi.”

“Thị trấn nhỏ mà.”

“Rất nhỏ. Dù sao, em cũng sẽ làm việc một thời gian ở nhà hàng và em nghĩ...” Cô nhún vai. “Chừng nào em còn ở đây, em có thể làm thêm công việc tình nguyện viên cũng tốt.”

Dana gật đầu. “Chị đã bắt đầu làm ở đây khi Doug bỏ chị đi. Doug Rhymer? Em nhớ không? Đội trưởng đội vật? Giờ anh ta sống với Kelly Santos. Đồ chó đẻ.” Chị mỉm cười, nhưng nụ cười run rẩy và không làm mắt chị ánh lên. “Chỗ này đã giúp chị.”

Angie ngả người ra ghế, cảm thấy như mình không có xương. Mình cũng là một người trong nhóm này, cô nghĩ. Nhóm những người không kết hôn. Mọi người đoán định nọ kia về cô bởi vì cô đã thất bại trong hôn nhân. Sao cô lại không nhận ra điều đó nhỉ? “Em có thể giúp được gì?”

“Nhiều thứ lắm. Đây này.” Dana với tay vào ngăn kéo bàn làm việc và lôi ra một cuốn giới thiệu in hai màu. “Trong này có những nét chính về các dịch vụ ở đây. Em đọc đi và xem điều gì khiến em quan tâm.”

Angie cầm lấy cuốn sách giới thiệu và lật mở ra. Cô chỉ mới bắt đầu đọc thì Dana nói, “Em có thể đưa đồ quyên góp của em cho Ted - ở đằng kia không? Ông ấy sắp về rồi.”

“Ồ. Chắc chắn rồi.” Angie bê hộp đồ quyên góp đến chỗ hai người đàn ông, họ mỉm cười đón nhận và tiếp tục làm việc. Cô quay lại chỗ sảnh và ngồi xuống một chiếc ghế nhựa đúc ở khu vực được bố trí tạm thời làm phòng đợi.

Cô lật giở qua cuốn sách giới thiệu, đọc về các dịch vụ. Tư vấn gia đình. Trung tâm cha mẹ và trẻ em. Chương trình điều trị bạo lực gia đình. Một ngân hàng lương thực. Có cả một danh sách các hoạt động gây quỹ - giải đánh golf, đấu giá, đua xe đạp, các buổi khiêu vũ marathon. Ngày nào những công dân hảo tâm trong cộng đồng của chúng ta cũng ghé tới quyên góp thực phẩm, tiền bạc, quần áo hay thời gian. Bằng cách đó chúng ta hỗ trợ chính mình và hỗ trợ lẫn nhau.

Angie cảm thấy như có một luồng điện chạy qua cơ thể ngay lúc ấy. Khi cô nhận ra rằng đó là niềm hy vọng, cô ngước lên, mỉm cười, ước gì có ai ở đó để cô có thể sẻ chia.

Ý nghĩ tiếp theo của cô là Conlan. Và nụ cười của cô tan biến. Cô hiểu ra rằng sẽ còn nhiều khoảnh khắc như vậy nữa trong những tháng tới. Những thời điểm mà – chỉ trong giây lát, chỉ đủ dài để gợi nỗi đau – cô sẽ quên là giờ đây mình cô độc. Cô buộc mình phải mỉm cười trở lại, dù cảm giác nụ cười căng cứng, không tự nhiên.

Đó là lúc cô nhìn thấy cô gái. Cô gái đi qua cửa ra vào, trông y hệt như một con chó nhỏ bị chết đuối, nước nhỏ giọt từ mũi cô, tóc cô, gấu quần cô. Mớ tóc ướt đẫm của cô màu đỏ rực, mặc dù không thể gọi tên chính xác sắc đỏ ấy. Làn da của cô gái trắng muốt như da Nicole Kidman và mắt cô màu nâu thăm thẳm; đôi mắt quá lớn so với gương mặt cô, đem đến cho cô vẻ trẻ trung đến khó tin. Tàn nhang lấm tấm trên hai gò má và sống mũi cô.

Đó là cô gái ở bãi đỗ xe; cô gái đã cài những tờ rơi Tìm Việc trên cần gạt nước.

Cô gái dừng lại ở cửa. Cô khép chặt chiếc áo khoác quanh mình, nhưng chiếc áo xơ xác quá khiến cử chỉ ấy trở thành vô nghĩa. Chiếc áo quá nhỏ và sờn rách ở cửa tay. Cô gái đi đến chỗ bàn tiếp đón.

Dana ngước nhìn, mỉm cười và nói gì đó.

Angie không thể cưỡng lại. Cô đứng lên và di chuyển đến gần hơn để có thể lắng nghe.

“Cháu đọc báo thấy nói đến việc quyên áo khoác.” Cô gái nói, khoanh tay và hơi rùng mình đôi chút.

“Chúng tôi mới bắt đầu gom từ tuần trước. Cháu phải để lại tên và số điện thoại. Chúng tôi sẽ liên lạc với cháu khi có áo cỡ của cháu.”

“Cháu muốn tìm áo cho mẹ cháu,” cô gái nói. “Mẹ cháu mặc cỡ S.”

Dana gõ bút chì vào cằm và nhìn cô gái chăm chú. “Thế còn áo khoác cho cháu thì sao? Chiếc áo này có vẻ...”

Cô gái cười vang; âm thanh sắc. Căng thẳng. “Cháu không sao.” Cô cúi xuống và viết gì đó lên một mảnh giấy, rồi chuyển nó qua bàn. “Cháu tên là Lauren Ribido. Đây là số điện thoại của cháu. Cô cứ gọi cho cháu khi có áo. Cám ơn cô.” Cô gái nhanh chóng quay người tiến ra cửa.

Angie đứng đó, bất động, nhìn chằm chằm vào cảnh cửa khép. Tim cô đập thật nhanh.

Chạy theo cô gái.

Ý nghĩ ấy bùng lên trong cô, làm cô phát hoảng vì sự mãnh liệt của nó.

Ấy là một ý nghĩ điên rồ. Tại sao?

Cô không biết. Không có câu trả lời. Tất cả những gì cô biết ấy là cô cảm thấy... có sự gắn kết nào đó với cô gái vị thành niên tội nghiệp đang cần một chiếc áo khoác vậy mà lại đi hỏi xin một chiếc cho mẹ mình. Cô đứng dậy, tiến lên một bước, rồi một bước nữa. Trước khi cô nhận ra, cô đã ra đến bên ngoài.

Mưa táp khiến cỏ rạp cả xuống, mưa đọng thành vũng tại bất kỳ chỗ nào đất hơi trũng. Hàng rào đỏ rực như lửa viền quanh khu đất ánh lên vì ẩm ướt và rung rinh trong gió.

Ở cuối con đường, cô gái đang chạy.

Angie vào trong xe, bật đèn lên cùng với cần gạt nước, và lùi xe ra khỏi bãi đỗ. Trong khi cô lái xe xuôi xuống con đường gập ghềnh, ánh đèn xe của cô chiếu sáng hình bóng của cô gái, cô tự hỏi mình đang làm cái quái gì thế.

Lén lút theo dõi , phần thực tế trong cô nói.

Giúp đỡ , phần mơ mộng trong cô đáp trả.

Cô tới góc phố và đi chậm lại. Dừng hẳn. Cô sắp sửa quay kính xuống và mời cô gái đi nhờ xe (chẳng có cô gái thông minh nào lại đồng ý làm thế), thì chiếc xe buýt số bảy đi tới và đỗ lại. Tiếng phanh xe rít lên; cửa lạch cạch mở ra. Cô gái nhảy lên bậc lên xuống và biến mất.

Chiếc xe buýt tiếp tục đi.

Angie đi theo chiếc xe cho tới thị trấn. Ở điểm giao cắt giữa Driftwood Way và đường cao tốc, cô có sự lựa chọn: rẽ về nhà hoặc đi theo chiếc xe buýt.

Cô không thể định nghĩa được lý do tại sao, cô đi theo chiếc xe buýt.

Sau rốt, ở tận cùng trong vùng đất West End tăm tối, cô gái xuống xe buýt. Cô gái đi qua khu vực dân cư có thể khiến khối người khiếp sợ và đi vào một toà nhà mang một cái tên không thể sai hơn: Chung cư sang trọng. Vài phút sau, đèn sáng lên ở khung cửa sổ trên tầng bốn.

Angie đỗ xe ở khúc ngoặt và chăm chú ngước nhìn tòa nhà. Nó khiến cô nhớ đến điều gì đó trong một cuốn tiểu thuyết của Roald Dahl, toàn những gỗ mục nát và những khoảng không gian trống rỗng, đen ngòm.

Chả trách mà cô gái kẹp tờ rơi Cần Việc Làm trên cần gạt nước xe hơi.

Em không thể cứu giúp tất cả bọn họ , Conlan thường nói vậy với Angie khi cô khóc cho sự bất bình đẳng trên thế giới. Câu trả lời của cô vẫn luôn luôn là Em chẳng cứu được bất kỳ ai trong bọn họ.

Hồi ấy cô có anh ở bên để ôm cô khi cô cảm thấy thế.

Giờ thì...

Điều đó phụ thuộc vào cô. Cô không thể cứu được cô gái ấy, chắc chắn rồi; cô không ở vị trí để làm được điều ấy.

Nhưng cô có thể tìm cách giúp cô gái.

MỌI CHUYỆN ĐỀU LÀ SỐ PHẬN. ANGIE ĐÃ NGHĨ NHƯ THẾ VÀO BUỔI SÁNG NGÀY thứ Hai khi cô đang đứng trước cửa kính trưng bày của cửa hàng Clothes Line.

Nó ở đó, ngay trước mặt cô.

Một chiếc áo khoác mùa đông màu xanh lá cây sẫm, dài đến gối, với cổ áo, cổ tay và nẹp áo viền lông nhân tạo. Con gái năm nay đều mặc kiểu này. Thực ra, Angie cũng từng có một chiếc áo khoác thế này hồi học lớp bốn.

Chiếc áo trông sẽ đẹp tuyệt khi cô gái có làn da sáng, mái tóc đỏ và cặp mắt nâu buồn mặc lên.

Angie chỉ mất một phần mấy giây để cố gắng thuyết phục mình không làm thế. Xét cho cùng, cô cũng có biết cô gái ấy đâu và đây cũng chẳng phải việc của cô.

Lý lẽ ấy quá yếu ớt và không thể thay đổi được ý định của cô.

Đôi khi một điều gì đó đến đúng lúc, và thật sự ra, cô mừng vì có thể nghĩ về ai đó ngoài bản thân mình.

Cô đẩy cửa bước vào cửa hàng nhỏ. Tiếng chuông kêu leng keng trên đầu cô khi cô bước vào. Âm thanh ấy đưa cô ngược thời gian, và trong khoảnh khắc, cô lại là một đội trưởng đội cổ vũ ở trường, gầy như que củi với mái tóc dày, đen nhánh, đi theo các chị mình vào cửa hàng bán quần áo duy nhất trong thị trấn.

Giờ thì, dĩ nhiên, có đến vài cửa hàng, thậm chí có cả một cửa hàng bách hóa J.C Penney ngoài kia trên đường cao tốc, nhưng hồi ấy, Clothes Line là nơi để sắm quần jean Jordache và quần chẽn.

“Không thể nào là cháu, Angie DeSaria.”

Giọng nói quen thuộc lôi Angie ra khỏi cơn mơ. Cô nghe thấy tiếng chân bước rộn ràng (đế giày cao su trên nền nhà trải vải sơn) và bắt đầu mỉm cười.

Bà Costanza len lỏi qua những giá treo quần áo, uyển chuyển, nhanh nhẹn khiến ngay cả Evander Holyfield [14] cũng phải ao ước. Thoạt tiên, chỉ có thể nhìn thấy mái tóc nhuộm đen, rối của bà. Rồi thì đến lượt đôi lông mày kẻ chì nâu và cuối cùng là nụ cười đỏ tươi như trái sơ ri của bà.

“Chào bác Costanza,” Angie nói với người phụ nữ đã thử cho cô chiếc áo lót đầu tiên và bán cho cô mọi đôi giày cô từng đi trong mười bảy năm trời.

“Bác không thể nào tin được chính là cháu.” Bà vỗ hai tay vào nhau, sử dụng lòng bàn tay để giữ gìn những chiếc móng tay dài gắn đá hình trái tim. “Bác nghe nói cháu đang ở thị trấn, dĩ nhiên, nhưng bác cho rằng cháu mua sắm quần áo của mình ở thành phố lớn. Để bác ngắm cháu nào.” Bà đẩy vai Angie và xoay cô vòng quanh. “Quần jean của Roberto Cavalli. Một cậu trai người Ý được đấy. Tốt lắm. Nhưng giày của cháu không thuận tiện để đi bộ trong thị trấn. Cháu cần giày mới. Và bác nghe nói cháu làm việc ở nhà hàng. Cháu sẽ cần giày phù hợp với công việc đó.”

Angie không thể nén nụ cười. “Bác lúc nào cũng đúng.”

Bà Costanza chạm vào má cô. “Mẹ cháu vui lắm vì cháu về nhà. Năm vừa rồi thật là tồi tệ.”

Nụ cười của Angie biến mất. “Đối với tất cả mọi người.”

“Ông ấy là người đàn ông tốt. Tốt nhất.”

Trong giây lát họ cùng lặng đi, nhìn nhau, cả hai bọn họ cùng nghĩ đến cha cô. Cuối cùng, Angie nói, “Trước khi bác bán cho cháu một đôi giày êm ái của bác, cháu muốn hỏi bác về chiếc áo khoác treo ở cửa sổ kia.”

“Chiếc áo ấy quá trẻ so với cháu, Angela. Bác biết ở thành phố…”

“Áo ấy không phải cho cháu. Cho... một người bạn.”

“À.” Bà gật đầu. “Năm nay đứa con gái nào cũng muốn một chiếc áo như thế này. Lại đây.”

Một tiếng sau, Angie rời cửa hàng Clothes Line với hai chiếc áo khoác mùa đông, hai đôi găng tay bằng lông thỏ, một đôi giày tennis của một hãng không tên tuổi và một đôi giày đen đế bằng để làm việc. Điểm đến đầu tiên của cô là một cửa hàng đóng gói đồ trong thị trấn, nơi cô cho đóng hộp hai chiếc áo khoác.

Cô đã định là sẽ gửi chúng tại Nhà Hỗ trợ láng giềng. Cô thực sự định làm như vậy.

Nhưng chẳng hiểu sao rút cuộc cô thấy mình đậu xe ở trên phố nhà cô gái, chăm chú nhìn lên tòa nhà căn hộ điêu tàn.

Cô cầm lấy mấy hộp đồ và đi về phía cửa ra vào tòa nhà. Gót giày của cô bị mắc vào một khe nứt trên vỉa hè, làm cô mất thăng bằng. Cô tưởng tượng ra mình trông giống Quasimodo, chúi về phía trước. Nhỡ ra có ai đó nhìn thấy, nhưng mà điều này, thực ra, đã bị những khung cửa sổ trống trơ, tăm tối kia phủ nhận rồi.

Cửa chính không khóa; thực tế là, nó chỉ còn treo trên một bản lề. Cô mở cửa ra, bước vào khoảng không mờ tối. Bên tay trái cô có một dãy hộp thư, đánh số. Hộp thư duy nhất có ghi tên là hộp thư của người quản lý tòa nhà: Dolores Mauk, 1A.

Phòng 1A đối diện với Angie. Kẹp mấy chiếc hộp dưới cánh tay, cô đi về phía cánh cửa và gõ lên đó. Khi không thấy ai trả lời, cô lại gõ.

“Tôi đến đây,” ai đó nói.

Cánh cửa mở ra. Một người phụ nữ trung niên với khuôn mặt thô và đôi mắt dịu dàng đứng đó. Bà ta mặc một chiếc váy hoa mặc nhà, và đi đôi giày tennis cao cổ hiệu Converse. Một chiếc khăn vuông màu đỏ bịt gần hết mái tóc bà.

“Có phải là bà Mauk không ạ?” Angie hỏi, bỗng dưng cảm thấy bị chú ý. Cô cảm thấy sự đề phòng của người phụ nữ.

“Tôi đây. Cô muốn gì?”

“Gói hàng này. Là của Lauren Ribido.”

“Lauren,” người phụ nữ nói, miệng dịu xuống nở nụ cười. “Con bé ngoan lắm.” Rồi bà ta lại cau mày. “Trông cô không giống người giao hàng đâu.” Bà Mauk phóng một cái nhìn sắc nhọn xuống đôi giày của Angie rồi lại ngước lên.

“Đây là áo khoác mùa đông,” Angie nói. Sự im lặng dồn đến khiến Angie cảm thấy buộc phải nói. “Tôi ở chỗ Nhà Hỗ trợ láng giềng khi cô ấy – Lauren - đến đó, hỏi xin áo khoác cho mẹ. Tôi nghĩ... sao không mua luôn hai chiếc? Vậy là tôi tới đây. Tôi có thể gửi gói hàng lại chỗ bà. Có được không ạ?”

“Tốt nhất là như vậy. Giờ họ đâu có nhà.”

Angie đưa cho bà ta chiếc hộp. Cô vừa bắt đầu quay đi thì người phụ nữ hỏi tên cô.

“Tôi là Angela Malone. Tên thời con gái là DeSaria.” Ở thị trấn cô luôn bổ sung thêm câu đó. Mọi người, dường như, ai cũng biết gia đình cô.

“Như tên nhà hàng ấy à?”

Angie mỉm cười. “Chính thế”

“Con gái tôi đã từng rất thích nhà hàng đó.”

Đã từng. Đó chính là vấn đề của nhà hàng. Người ta đã lãng quên nó. “Hãy đưa cô ấy tới lần nữa. Tôi sẽ đảm bảo để cô ấy được cư xử như bà hoàng.” Angie biết ngay lập tức là cô đã lỡ lời.

“Cám ơn,” bà Mauk nói giọng khản đi. “Tôi sẽ làm vậy.”

Và cánh cửa đóng lại.

Angie đứng đó, tự hỏi mình đã làm gì sai. Cuối cùng, thở dài, cô quay lại và tiến ra cửa.

Một khi đã vào trong xe, cô ngồi đó, ngắm nhìn quanh khu phố xập xệ. Một chiếc xe đưa đón học sinh màu vàng sáng rẽ vào góc phố và dừng lại. Vài đứa trẻ nhảy ra khỏi xe và đi trên phố. Bọn trẻ còn khá nhỏ - có lẽ chỉ độ lớp một, lớp hai.

Chẳng có bà mẹ nào chờ chúng ở góc phố, chuyện trò với nhau và nhấm nháp một ngụm cà phê Starbucks đắt tiền.

Cô lại cảm thấy vết thương cũ trong lồng ngực, nỗi đau quen thuộc lại nở bừng. Cô nuốt mạnh, dõi theo lũ trẻ đi thành đám trên đường, đá một cái lon trên vỉa hè và cười vang.

Phải cho tới khi bọn trẻ sắp sửa ra khỏi tầm mắt, cô mới nhận ra đang thiếu điều gì.

Những chiếc áo khoác.

Chẳng đứa trẻ nào mặc áo khoác mùa đông, dù bên ngoài trời lạnh. Và sang tháng sau sẽ còn lạnh hơn nữa.

Ý tưởng đã đến với cô ngay khi ấy: Vận động quyên góp áo khoác tại DeSaria’s. Đổi lấy một chiếc áo khoác mới hoặc đã mặc nhưng còn tốt, họ sẽ tặng một bữa tối miễn phí.

Hoàn hảo.

Cô nhét chìa vào ổ và khởi động xe. Cô sốt ruột muốn kể ngay với Mira.

LAUREN VỘI VÃ ĐI QUA CÁC KHỐI NHÀ CỦA TRƯỜNG HỌC. KHÔNG KHÍ LẠNH quất vào mặt cô. Hơi thở của cô phả thành làn khói trắng tan biến nhanh chóng khi cô bước đi.

David đứng ở gần cột cờ, đợi cô. Khi cô xuất hiện, cậu mỉm cười tươi rói. Cô biết là cậu đã chờ một lúc rồi; má cậu đỏ rực lên. “Khỉ thật, ngoài này lạnh quá,” cậu nói, kéo cô lại gần để trao một nụ hôn dài kiểu Pháp.

Họ đi bộ qua sân trường, vẫy tay và mỉm cười với bè bạn, nói chuyện khe khẽ với nhau.

Bên ngoài cửa lớp cô, họ dừng lại. David hôn cô lần nữa, rồi đi về phía lớp học của mình. Đi được vài bước, cậu dừng lại và quay về phía cô.

“Này, anh quên không hỏi. Anh cần mặc tuxedo màu gì để đi dạ hội đầu năm học?”

Cô cảm thấy mặt mình cắt không được hột máu. Dạ hội. Chỉ còn mười ngày nữa là đến buổi khiêu vũ.

Chết. Cô đã thu xếp mọi việc trang trí, người chỉnh nhạc và ánh sáng.

Sao cô lại có thể quên điều quan trọng nhất: một chiếc váy?”

“Lauren?”

“À. Màu đen,” cô trả lời, cố gắng mỉm cười. “Màu đen luôn an toàn nhất.”

“Rồi, như ý em.” Cậu nói và mỉm cười.

Mọi thứ luôn luôn dễ dàng đối với David. Cậu không phải tự hỏi là thế nào để có tiền mua váy mới – khỏi phải lo đến giày hay khăn choàng.

Suốt giờ học lượng giác, cô bị mất tập trung. Ngay khi giờ học kết thúc, cô chui vào một góc yên tĩnh trong thư viện và lục lọi trong ví và ba lô của mình, lục tìm tiền.

$6,12. Đó là tất cả những gì cô có lúc này.

Một nếp nhăn hằn sâu trên trán cô và ngự trị ở đó suốt cả ngày.

Sau giờ học, cô bỏ buổi họp về việc trang trí và chạy vội về nhà.

Xe buýt thả cô xuống góc phố Apple Way và phố Cascade. Trời mưa to. Không còn là một bức màn xám bạc, mà là sự dữ dội khiến thế giới trở nên lạnh lẽo và xám xịt. Những hạt mưa rơi xuống vỉa hè nhanh chóng và liên tục đến nỗi trông đường phố như sắp sôi lên. Chiếc mũ bằng vải thô của cô chẳng ích gì. Nước chảy xuống hai bên má cô và dúi cái lạnh, ướt dính vào trong cổ áo cô. Ba lô của cô, nhét đầy cả tấn sách vở và tài liệu, nặng trịch. Thêm vào đó, đôi giày bằng vải nhựa của cô đã bị gãy gót từ cách đây ba khối nhà, nên giờ đây cô khập khiễng đi xuống dốc để về nhà.

Ở góc phố, cô vẫy tay chào Bubba, người cũng vẫy chào lại cô, rồi lại quay về với những hình xăm của mình. Ánh đèn neon chập chờn, mệt mỏi trên đầu anh ta. Một tấm biển nhỏ hơn, bày bên cửa sổ - Tôi đã xăm cho bố mẹ các bạn – đầy những vệt nước mưa. Cô tập tễnh tiến về phía trước, đi qua tiệm uốn tóc Hair Apparent nơi trên danh nghĩa mẹ cô làm việc, đi qua cửa hàng siêu thị mini của gia đình họ Chu và qua cửa hàng bán đồ ăn Teriyaki Take-out do gia đình Ramirez sở hữu và điều hành.

Bên ngoài tòa nhà, cô dừng lại, bỗng dưng miễn cưỡng phải vào bên trong. Cô nhắm mắt lại và tưởng tượng ra mái ấm cô sẽ có được vào một ngày không xa. Những bức tường màu vàng như bơ, những chiếc ghế sô pha căng phồng, những cửa sổ lớn đẹp như tranh vẽ, và hàng hiên bao quanh trồng đầy hoa.

Cô cố gắng bám vào giấc mơ quen thuộc ấy, nhưng nó trôi qua cô, mong manh như làn khói.

Cô buộc lòng thay đổi suy nghĩ. Ước ao và hy vọng chẳng bao giờ mang thức ăn đến trên bàn hay đưa mẹ về nhà sớm hơn dù chỉ là một phút. Và nó chắc chắn sẽ chẳng bao giờ mang đến cho người con gái một chiếc váy dạ hội.

Cô đi bộ dọc theo lối đi trải bê tông nứt nẻ, qua hộp đựng dụng cụ làm vườn bà Mauk đã để bên ngoài từ tuần trước trong một nỗ lực yếu ớt để khuyến khích lòng tự tôn của khách thuê nhà. Chẳng mấy chốc chúng sẽ rỉ sét. Những dụng cụ ấy sẽ hỏng hết trước khi ai đó buồn tỉa tót những cây hồng khẳng khiu hay cắt xén những bụi dâu dại mọc tràn lan ở sân sau tòa nhà.

Tiền sảnh tối om đón chào cô.

Cô đi lên gác và thấy cửa căn hộ mở toang.

“Mẹ ơi!” cô gọi to, đẩy cửa đi vào.

Trong chiếc gạt tàn đặt trên bàn nước, có một điếu thuốc đang cháy. Có một đống lớn đầu mẩu thuốc lá. Đây đó, những điếu thuốc đã hút hết nằm bừa bãi trên mặt bàn phoóc-mi-ca.

Căn hộ trống không. Có lẽ mẹ đã đi làm về từ lúc năm giờ (nếu như mẹ có đến nổi chỗ làm), rồi thay đổi diện mạo từ một nhân viên thẩm mỹ viện thành một người đàn bà đàng điếm của đám dân chơi mô tô và chạy vội đến bên chiếc ghế quán bar ưa thích.

Lauren vội vã đi dọc theo hành lang dẫn đến phòng ngủ của cô, trên đường đi cô không thôi cầu nguyện. Làm ơn, làm ơn, làm ơn.

Bên dưới chiếc gối của cô trống không.

Mẹ đã tìm thấy tiền.