T
RONG VÀI NGÀY SAU ĐÓ, ANGIE LÀM ĐIỀU CÔ LUÔN LÀM TỐT NHẤT. CÔ lao đầu vào dự án. Cô thức dậy trước bình minh và dành cả ngày để nghiên cứu. Cô gọi cho bạn bè và các khách hàng cũ – bất kỳ ai đã từng làm kinh doanh nhà hàng hoặc dịch vụ ăn uống – và viết ra giấy mọi lời khuyên của họ. Rồi cô đọc đi đọc lại sổ sách kế toán cho tới khi cô hiểu được từng đồng từng xu đã thu, chi như thế nào. Khi xong việc đó, cô tới thư viện. Hàng giờ trôi qua, cô ngồi bên chiếc bàn formica rẻ tiền với sách và các bài báo trải trước mặt. Sau đó, cô đứng lỳ bên chiếc máy đọc vi phim [8] để đọc các tin lưu trữ.
Lúc sáu giờ tối, bà Martin, người thủ thư già đã cấp cho Angie tấm thẻ đọc đầu tiên, đi tắt đèn.
Angie hiểu ý. Cô bê vài chồng sách ra xe ô tô và lái xe về nhà, nơi cô tiếp tục đọc đến đêm. Cô ngủ thiếp đi trên sô pha, cô thích chỗ đó hơn là nằm một mình trên chiếc giường trống.
Trong khi cô tiến hành nghiên cứu, gia đình cô gọi điện đều đặn. Cô trả lời mọi cuộc gọi một cách lịch thiệp, nói vài câu, rồi nhẹ nhàng đặt máy. Cô nhắc đi nhắc lại rằng cô sẽ nói với mọi người cô sẽ đến xem nhà hàng khi nào cô sẵn sàng. Mỗi cuộc gọi như thế, mẹ lại càu nhàu và nói khô khốc, Con sẽ chẳng học được gì nếu không bắt tay vào việc, Angela.
Angie đáp, Con không thể làm mà không học mẹ ơi. Con sẽ báo với mẹ khi con sẵn sàng.
Con lúc nào cũng ám ảnh như vậy . Mẹ thường trả lời. Chúng ta không hiểu con.
Nói thế cũng không hẳn là sai, Angie biết vậy. Cô lúc nào cũng là một phụ nữ rất tập trung vào trọng tâm. Khi cô bắt đầu điều gì đó, không bao giờ cô bỏ giữa chừng, khởi đầu không bao giờ dễ dãi. Chính đặc điểm đó đã hủy hoại cô. Thật đơn giản, một khi cô đã quyết định Ta muốn có con, thì sự đổ vỡ đã hiện ra ở chân trời. Đó là điều mà cô không thể lường được, và việc tìm tòi đã lấy đi mọi thứ.
Cô biết vậy, rút được bài học, nhưng vẫn cứ là mình. Khi cô đã nhận lãnh một trách nhiệm nào đó, cô tập trung vào thành công.
Và nói thực – cô chỉ thành thật với bản thân trong bóng tối tĩnh lặng của những giờ đêm thẳm sâu – nghĩ về nhà hàng còn hơn là khóc than về những mất mát và thất bại đã đưa cô tới chỗ này.
Chúng luôn ở bên cô, dĩ nhiên, những ký ức và nỗi đau ấy. Đôi khi, trong lúc cô đang đọc về những kỹ năng quản lý hoặc quảng bá doanh nghiệp đặc biệt, quá khứ lại hiện lên trong cô.
Giờ này chắc Sophia đã ngủ yên rồi.
Hoặc:
Conlan thích bài hát đó lắm.
Cảm giác giống y như chạy chân không trên những mảnh thuỷ tinh vỡ sắc nhọn. Cô gỡ mảnh kính vỡ ra và tiếp tục chạy, nhưng nỗi đau còn nguyên đó. Trong những khoảnh khắc ấy, cô nỗ lực gấp đôi để nghiên cứu tài liệu, và có lẽ tự rót cho mình một ly rượu vang.
Đến chiều hôm thứ Tư, cô kiệt sức vì thiếu ngủ và đã kết thúc phần nghiên cứu. Cô chẳng thể học hỏi thêm gì từ các nguồn thứ cấp. Giờ đã đến lúc cô áp dụng những kiến thức của mình vào nhà hàng.
Cô cất sách vở đi, tắm nước nóng thật lâu, mặc quần áo cẩn thận. Quần đen, áo len đen. Không có bất cứ điều gì thu hút sự chú ý hoặc nhấn mạnh đến kiểu cách “thành thị” của cô.
Cô chậm rãi lái xe qua thành phố và đỗ lại trước cửa nhà hàng. Tay cầm cuốn sổ ghi chép, cô bước ra khỏi xe.
Thứ đầu tiên khiến cô chú ý là chiếc ghế dựa dài.
“Ồ,” cô nói thật khẽ, sờ tay vào lưng ghế bằng sắt uốn màu đen. Kim loại lạnh ngắt trên đầu ngón tay cô... y hệt như cái ngày họ mới mua ghế.
Cô nhắm mắt, nhớ lại...
Bốn người đã không thể đồng ý với bất kỳ điều gì trong suốt cả tuần – bài hát sẽ hát ở đám tang, người hát, bia mộ như thế nào, hoa hồng màu gì để phủ lên quan tài. Cho tới khi nhìn thấy chiếc ghế dựa dài. Họ vào cửa hàng đồ gia dụng để tìm nến thơm hương xả dùng thắp trong lễ truy điệu bố, và họ nhìn thấy chiếc ghế đó.
Mẹ dừng lại đầu tiên. Bố luôn luôn muốn có một chiếc ghế dài bên ngoài nhà hàng.
Để dân tình có thể ngồi nghỉ chân , Mira nói, tiến đến bên mẹ.
Đến sáng hôm sau thì chiếc ghế dựa dài đã được đặt đâu vào đó sát lề đường. Họ không bao giờ nói đến chuyện gắn một tấm biển tưởng niệm ở đó. Chỉ ở thành phố lớn người ta mới làm vậy. Ở thị trấn West End này, ai nấy đều biết chiếc ghế này thuộc về Tony DeSaria. Trong tuần lễ đầu tiên, có khoảng một tá hoa tươi được đặt ở đó, những bông hoa đơn lẻ do những người tưởng nhớ bố để lại.
Cô ngước nhìn lên nhà hàng, niềm vui và tự hào của bố.
“Con sẽ cứu nó vì bố, bố ơi,” Cô thì thầm, giây lát sau nhận ra là mình đang chờ đợi một câu trả lời. Chẳng có gì, chỉ có âm thanh của xe cộ đi lại sau lưng cô và tiếng rì rào xa xa của biển.
Cô mở nắp bút, ngòi bút nhọn tì sẵn lên trang giấy, sẵn sàng.
Mặt tiền bằng gạch cần được sửa chữa. Rêu mọc dưới mái hiên. Rất nhiều viên gạch lát đã biến mất. Tấm biển bằng đèn neon đỏ có hàng chữ DeSaria’s bị mất dấu phẩy và chữ i.
Cô bắt đầu ghi chép.
Mái
Sửa chữa bên ngoài
Lối đi bẩn
Rêu
Biển hiệu
Cô bước qua mấy bậc thềm, tiến tới cửa trước và dừng lại. Thực đơn được dán trên tường phía sau một tấm kính. Spaghetti với thịt băm viên giá $7,95. Một bữa tối với món lasagna, kèm bánh mì và salad, có giá $6,95.
Thảo nào họ đang lỗ vốn.
Giá cả
Thực đơn
Cô mở cửa ra. Có tiếng chuông rung trên đầu. Mùi hương ngạt ngào của tỏi, húng tây, mùi cà chua rim, mùi bánh mì nướng ngập trong không khí.
Thời gian như quay ngược trở lại. Chẳng có gì thay đổi từ hai mươi năm qua. Gian phòng mờ tối, những chiếc bàn tròn phủ khăn kẻ ca rô trắng đỏ, những bức hình nước Ý treo trên tường. Cô đợi nhìn thấy bố từ trong góc nhà tiến ra, miệng cười tươi, lau tay vào tạp dề, cất tiếng, Bella Angelina, con đã về.
“Nào. Nào. Em thực sự đã đến rồi đây. Chị đã lo rằng em bị ngã trên cầu thang ở nhà nghỉ và không đứng dậy nổi.”
Angie chớp chớp và dụi mắt.
Livvy đứng bên chiếc bàn của nhân viên phục vụ, mặc một chiếc quần jean bó sát, một chiếc áo màu đen trễ vai, và đi đôi giày kiểu Barbie. Sự căng thẳng tỏa ra như sóng từ Livvy. Cứ như thể họ lại là trẻ con lần nữa, mấy đứa con gái mới lớn tranh giành nhau xem ai được sử dụng keo xịt Baby Soft trước tiên.
“Em đến giúp một tay,” Angie nói.
“Thật không may, em chẳng biết nấu nướng và em đã không làm việc ở nhà hàng kể từ khi em được thả cương. Không. Đợi đã. Em chưa từng làm việc ở đây.”
“Em không muốn chị em mình cãi nhau đâu, Livvy.”
Livvy thở dài. “Chị biết. Chị cũng không cố tình xử sự kiểu đó đâu. Chị chỉ mệt mỏi với tất cả những chuyện tào lao này. Nhà hàng đang lỗ vốn nặng và tất cả những gì mẹ tiếp tục làm là chuẩn bị thêm lasagna. Mira đối xử với chị chẳng ra sao nhưng khi chị nhờ giúp thì nó lại bảo chẳng biết gì về kinh doanh, chỉ biết nấu. Và rút cuộc thì ai đã đứng ra giúp? Em. Công chúa của bố. Chị chẳng biết nên khóc hay nên cười nữa.” Chị lôi bật lửa ra khỏi túi áo và châm một điếu thuốc.
“Chị không định hút thuốc ở đây đấy chứ?”
Livvy dừng lại. “Em nói y như bố.” Chị thả điếu thuốc vào chiếc cốc lưng lưng nước. “Chị ra ngoài hút thuốc đây. Khi nào em tìm ra cách cứu vãn tình thế thì bảo chị.”
Angie nhìn theo chị, rồi cô đi vào trong bếp nơi mẹ đang bận rộn xếp từng lớp lasagna vào một chiếc chảo nướng bằng kim loại to. Mira đứng ngay cạnh mẹ, xếp thịt viên vào một khay kim loại chỉ nhỏ hơn chiếc giường đơn một chút. Khi Angie bước vào, Mira ngước lên, mỉm cười. “Chào em.”
“Angie!” Mẹ chùi má, để lại một vệt cà chua đỏ. Mồ hôi lấm tấm trên lông mày mẹ. “Con đã sẵn sàng để học nấu ăn chưa nào?”
“Con khó lòng mà cứu được nhà hàng bằng việc nấu nướng mẹ à. Con đang ghi chép.”
Nụ cười của mẹ kém tươi đôi chút. Mẹ ném cho Mira, người chỉ hơi nhún vai, một cái nhìn lo lắng. “Ghi chép á?”
“Chỉ những gì con nghĩ có thể giúp thúc đẩy kinh doanh thôi.”
“Và con bắt đầu trong bếp của mẹ ư? Bố con – Chúa phù hộ ông ấy – yêu quý…”
“Yên tâm, mẹ ơi. Con chỉ kiểm tra mọi thứ thôi mà.”
“Bà Martin nói là em đọc mọi cuốn sách có liên quan đến nhà hàng ở thư viện.” Mira nói.
“Nhắc em chớ có bao giờ thuê phim đồi trụy ở cái thị trấn này nhé.”
Angie nói, mỉm cười.
Mẹ làu bàu. “Ở đây mọi người quan tâm tới nhau, Angela à. Điều ấy tốt chứ sao.”
“Đừng có bắt đầu thế mẹ. Con đùa thôi mà.”
“Mẹ mong là thế.” Mẹ đẩy kính nằm cao hơn trên sống mũi và ngó nhìn Angie với đôi mắt nâu to như mắt cú. “Nếu con muốn giúp, thì học nấu nướng đi.”
“Bố có nấu được đâu.”
Mẹ chớp mắt, sụt sịt, rồi tiếp tục rải hỗn hợp pho mát ricotta trộn với rau mùi tây lên trên chỗ mì.
Mira và Angie nhìn nhau.
Chuyện này sẽ tệ hơn Angie tưởng nhiều. Cô sẽ phải có những bước đi thận trọng. Livvy hay khó chịu là một chuyện. Mẹ bực mình lại là một chuyện khác hẳn. Thành phố Barrow ở bang Alaska, giữa mùa đông, còn ấm áp hơn mẹ khi điên tiết.
Angie nhìn những ghi chép của mình, cảm thấy cả hai cặp mắt đang hướng vào cô. Mất một giây cô mới đủ can đảm để hỏi: “Vậy, thực đơn nhà mình không thay đổi đã bao lâu rồi?”
Mira mỉm cười hiểu biết. “Từ mùa hè chị dự trại hè nữ Hướng đạo sinh.”
“Buồn cười nhỉ.” Mẹ gắt. “Chúng ta đã hoàn thiện thực đơn. Khách hàng quen của chúng ta thích mọi thứ trong thực đơn.”
“Con đâu có ý gì đâu. Con chỉ muốn biết lần cuối cùng ta đổi thực đơn là khi nào thôi.”
“Hồi năm 1975.”
Angie gạch chân từ thực đơn trong danh sách của mình. Có lẽ cô chẳng biết nhiều về việc điều hành một nhà hàng, nhưng cô biết khá nhiều về chuyện ra ngoài ăn tối. Một thực đơn thay đổi thường xuyên sẽ hút khách quay lại nhiều hơn. “Thế nhà mình có lên món đặc biệt cho mỗi tối không?”
“Mọi thứ đều đặc biệt. Đây đâu có phải là trung tâm thành phố Seattle, Angela. Ở đây ta làm theo cách của chúng ta. Đối với bố thế cũng đủ tốt rồi. Chúa phù hộ linh hồn ông ấy.” Cằm mẹ vênh lên chĩa vào không khí. Nhiệt độ trong bếp giảm vài độ. “Giờ ta nên quay lại với công việc thôi.” Mẹ thúc khuỷu tay vào Mira, và chị lại tiếp tục nặn từng viên thịt bằng tay.
Angie biết là cô có thể đi ra. Cô quay lại và đi vào phòng ăn trống trải. Cô nhìn thấy Livvy đứng sau quầy phục vụ. Chị cô đang nói chuyện với Rosa, người phụ nữ làm công việc phục vụ bàn ở đây từ hồi năm bảy mươi. Angie vẫy tay chào và đi lên gác.
Phòng làm việc của bố trên gác rất yên tĩnh. Cô dừng lại trong hành lang mở rộng, để kỷ niệm trào dâng. Trong đầu cô, ông vẫn đang còn đây, ngồi bên chiếc bàn gỗ sồi lớn ông đã mua trong cuộc đấu giá ở câu lạc bộ Rotary, đang xem xét sổ sách kế toán.
Angelina! Vào đây con. Bố sẽ chỉ cho con xem các loại thuế.
Nhưng con muốn đi xem phim mà, bố.
Tất nhiên rồi. Thế thì đi đi. Bảo Olivia lên đây .
Cô thở dài nặng nề và đi về phía chiếc bàn của bố. Cô ngồi xuống chiếc ghế của ông, nghe tiếng lò xo rít lên dưới sức nặng của cô.
Trong vòng vài tiếng đồng hồ sau đó, cô nghiên cứu, học hỏi và ghi chép. Cô đọc lại tất cả mọi sổ sách kế toán cũ và sau đó bắt đầu với các hồ sơ thuế và các ghi chép viết tay về kinh doanh của bố. Khi cô đóng cuốn sổ cuối cùng lại, cô biết rằng mẹ cô nói đúng. DeSaria’s đang gặp khó khăn. Doanh thu của họ gần như bằng không. Cô dụi mắt, rồi đi xuống nhà.
Đã bảy giờ tối.
Đang là giữa giờ ăn tối. Có hai bàn khách ăn ở trong nhà hàng. Bác sĩ Petrocelli cùng vợ, và gia đình Schmidt.
“Lúc nào cũng chậm thế này ạ?” cô nói với Livvy, lúc đó đang đứng sau quầy phục vụ, ngắm nghía bộ móng tay nhọn của mình. Màu sơn đỏ tươi điểm những ngôi sao màu hồng.
“Thứ Tư tuần trước, cả buổi tối chúng ta có ba khách hàng. Em có thể ghi chép lại. Tất cả họ đều gọi món lasagna, nếu em quan tâm.”
“Làm như họ có nhiều lựa chọn ấy.”
“Bắt đầu rồi đây.”
“Em không đến đây để chỉ trích chị đâu, Liv. Em đang cố gắng giúp mà.”
“Em muốn giúp hả? Hãy tính cách gì để đưa thêm khách hàng đến đây. Hoặc làm cách nào để trả lương cho Rosa Contadori.” Chị liếc nhìn nhân viên phục đã có tuổi đang di chuyển lạnh như băng, mỗi lần bê độc một đĩa thức ăn.
“Sẽ phải có một vài thay đổi,” Angie nói, cố gắng nhẹ nhàng hết mức có thể.
Livvy gõ gõ chiếc móng tay dài màu tím vào răng. “Thay đổi gì nào?”
“Thực đơn. Quảng cáo. Trang trí. Giá cả. Thanh khoản của ta thật tồi tệ. Đơn hàng cũng vậy. Ta đang lãng phí thực phẩm.”
“Phải nấu ăn cho mọi người chứ, dù họ không đến đi chăng nữa.”
“Em chỉ muốn nói rằng…”
“Rằng bọn chị làm gì cũng sai.” Chị cao giọng để mẹ có thể nghe thấy.
“Cái gì đấy?” Mẹ nói, từ trong bếp đi ra.
“Angie mới ở đây được nửa ngày mẹ ạ. Đủ lâu để biết rằng mẹ con ta chẳng biết cóc khô gì.”
Mẹ nhìn xuống bọn họ một lát rồi quay đi và tiến về góc gần cửa sổ, nơi bà bắt đu đưa nói chuyện với bức rèm.
Livvy ngước mắt lên trời. “Ồ, được lắm. Mẹ đang hỏi ý kiến bố. Nếu mà người quá cố bất đồng với chị, chị sẽ ra khỏi đây ngay.”
Cuối cùng, mẹ quay lại. Trông bà không được vui. “Bố nói với mẹ rằng con nghĩ là thực đơn rất tệ.”
Angie cau mày. Cô nghĩ như vậy, nhưng chưa nói với ai hết. “Không tệ, mẹ ạ. Nhưng thay đổi có lẽ cũng tốt mà.”
Mẹ cắn môi dưới, khoanh tay lại. “Em biết,” bà nói vào khoảng không khí bên cạnh mình. Rồi bà nhìn Livvy. “Bố nghĩ là chúng ta nên nghe theo Angie. Lúc này.”
“Dĩ nhiên là bố nghĩ thế. Công chúa của bố mà.” Chị liếc nhìn Angie. “Chị chẳng cần những trò vớ vẩn này. Chị có người chồng mới đang van xin chị ở lại nhà buổi tối và thụ thai.”
Mũi tên đã trúng đích. Angie thực sự co rúm người lại.
“Vậy thì chị sẽ làm như thế.” Livvy vỗ vào lưng Angie. “Chúc em may mắn với chỗ này, em gái. Của em hết đấy. Em làm việc các buổi tối và cuối tuần nhé.” Chị quay gót đôi giày cao và bỏ đi.
Angie nhìn chằm chằm sau lưng chị, tự hỏi sao mọi sự trở nên tồi tệ nhanh chóng thế. “Con chỉ nói là chúng ta cần một vài thay đổi.”
“Nhưng không được đổi thực đơn,” mẹ nói, tay khoanh lại. “Mọi người yêu thích món lasagna của mẹ mà.”
...
LAUREN NHÌN CHĂM CHÚ VÀO CÂU HỎI TRƯỚC MẶT CÔ.
Một người đàn ông đi sáu dặm với tốc độ bốn dặm một giờ. Anh ta cần phải đi với tốc độ nào trong vòng hai tiếng rưỡi để đạt được tốc độ trung bình sáu dặm một giờ trong toàn bộ chặng đường?
Các lựa chọn cho câu trả lời nhòa đi trước đôi mắt mệt mỏi của cô.
Cô ngồi lùi ra khỏi bàn. Cô không thể làm tiếp được nữa. Việc chuẩn bị cho kỳ thi vào đại học đã chiếm nhiều thời gian của cô đến nỗi trong tháng qua cô bị đau đầu. Chẳng tốt cho cô chút nào nếu cô qua được bài thi nhưng lại ngủ gật trong các giờ học.
Hai tuần nữa là đến kỳ thi.
Thở dài, cô kéo ghế trở lại bàn và cầm bút chì lên. Cô đã dự kỳ thi này năm ngoái và đạt điểm tốt. Lần này, cô hy vọng sẽ được hoàn hảo 1600 điểm. Đối với một cô gái như cô, mỗi điểm đều quan trọng.
Một tiếng sau khi lò nướng đổ chuông, cô đã hoàn thành năm trang của bài kiểm tra. Các con số, từ vựng và công thức hình học trôi nổi trong đầu cô như những chiếc tàu vũ trụ to đùng đâm vào nhau trong phim Chiến tranh giữa các vì sao.
Cô đi vào bếp để làm bữa tối trước khi đi làm. Cô có thể chọn giữa một bát ngũ cốc Raisin Bran và một quả táo với bơ lạc. Cô chọn táo. Khi ăn xong, cô mặc một chiếc quần màu đen và một chiếc áo len màu hồng dày dặn. Đằng nào thì áo choàng Rite Aid [9] cũng phủ gần hết chiếc áo len. Cô với lấy chiếc ba lô – biết đâu cô có thời gian để làm nốt bài tập môn lượng trong lúc nghỉ ăn tối – và đi ra khỏi căn hộ.
Cô vội vã đi xuống cầu thang và vừa nắm tay vào nắm đấm cửa khi nghe thấy giọng nói, “Lauren?”
Khỉ thật . Cô dừng lại, quay đầu.
Bà Mauk đứng trong hành lang dẫn đến căn hộ của cô. Mép bà trễ xuống trong cái cau mặt mệt mỏi. Những nếp nhăn trên trán bà trông như vẽ. “Bác vẫn đang đợi séc thanh toán tiền nhà.”
“Cháu biết.” Cô cố gắng giữ cho giọng mình bình tĩnh.
Bà Mauk tiến về phía cô. “Bác rất tiếc, Lauren. Cháu biết bác đấy, nhưng bác cần cháu thanh toán. Nếu không, bác sẽ mất việc.”
Lauren cảm thấy mình bẹp dí. Giờ cô sẽ phải yêu cầu chủ của mình trả trước một ít. Cô ghét phải làm thế. “Cháu biết mà. Cháu sẽ nói với mẹ.”
“Cháu nên làm thế.”
Cô đi ra cửa, còn nghe thấy bà Mauk nói “Cháu là một đứa trẻ ngoan, Lauren”; người quản lý cũng nói y hệt như vậy mỗi lần cô hỏi tiền. Chẳng biết trả lời làm sao, nên Lauren tiếp tục bước đi, lao vào màn đêm gió mưa, tím thẫm.
Phải đổi xe buýt hai lần cô mới tới được phía đường cao tốc, nơi ánh đèn neon sáng chói của hiệu thuốc Rite Aid chào đón khách suốt đêm. Cô vội vã đi về cửa hàng, dù cô chưa bị muộn. Chỉ cần thêm vài phút trên thẻ của cô cũng hơn.
“Lauren đấy à?” dược sĩ Sally Ponochek nói. Như mọi khi, bà ta liếc xéo cô. “Ông Landers muốn gặp cô.”
“Vâng. Cám ơn bác.” Cô đi vào phía trong chỗ nghỉ ăn trưa của nhân viên để cất đồ đạc của mình, rồi đi lên gác đến văn phòng nhỏ, chất đầy đồ dự trữ của người quản lý. Dọc đường đi cô tập luyện cách hỏi như thế nào: Cháu đã làm việc ở đây gần một năm rồi. Cháu làm việc trong mọi kỳ nghỉ - bác biết mà. Cháu sẽ làm việc trong kỳ lễ Tạ ơn và cả lễ Giáng sinh nữa. Liệu có cách nào cho cháu xin lĩnh trước tiền lương tuần này không ạ?”
Cô buộc mình mỉm cười với ông ta. “Bác muốn gặp cháu, bác Landers?”
Ông ta rời mắt khỏi đống giấy tờ trên bàn và ngước nhìn. “Ồ, Lauren, phải đấy.” Ông ta đưa tay lên vuốt mớ tóc đang mỏng đi của mình, chải chải chỗ tóc còn lại vắt ngang qua đầu. “Chẳng biết nói thế nào với cháu. Chúng ta sẽ phải để cháu nghỉ. Cháu thấy việc kinh doanh chậm thế nào rồi. Nghe nói tập đoàn đang định đóng cửa chỗ này. Dân địa phương không thích ghé vào mua ở các chuỗi cửa hàng. Bác xin lỗi.”
Mất một giây. “Bác đuổi việc cháu à?”
“Nói đúng ra thì cho cháu nghỉ việc. Nếu việc làm ăn sáng sủa hơn...”. Ông ta bỏ lửng lời hứa hẹn trống rỗng ấy. Cả hai bọn họ đều biết việc làm ăn sẽ không tấn tới hơn. Ông ta đưa cho cô một lá thư. “Đây là một thư giới thiệu rất hào nhoáng. Bác rất tiếc khi mất cháu, Lauren.”
NGÔI NHÀ QUÁ YÊN TĨNH.
Angie đứng bên lò sưởi, mắt không rời đại dương trong ánh trăng. Hơi ấm tỏa đến chân cô nhưng không hiểu sao không chạm được vào bên trong cô. Cô khoanh tay lại, vẫn cảm thấy lạnh.
Mới có tám rưỡi tối; quá sớm để đi ngủ.
Cô rời khỏi cửa sổ và nhìn về phía cầu thang. Nếu như cô có thể quay ngược về thời gian vài năm trước, trở lại thành người phụ nữ có thể ngủ dễ dàng.
Trong vòng tay Conlan, việc đó dễ dàng hơn. Đã quá lâu rồi cô không ngủ một mình nên cô đã quên tấm đệm lớn đến mức nào, nhớ hơi ấm tỏa ra từ thân thể người yêu biết bao.
Tối nay không có cách nào cô có thể ngủ được, nếu cô cứ cảm thấy thế này.
Cái cô cần là tiếng động. Sự gần gũi với cuộc sống.
Cô cúi xuống và cầm lấy chìa khóa của mình để trên bàn, rồi đi ra cửa.
Mười lăm phút sau. Cô đỗ xe trên lối vào nhà Mira. Căn nhà nhỏ hai tầng nằm trên một mảnh đất bé tẹo, liền kề với những ngôi nhà giống nhau. Mảnh sân trước nhà đầy đồ chơi, xe đạp và ván trượt.
Angie ngồi đó một phút, gõ gõ tay vào vô lăng. Cô không thể xông vào nhà Mira vào lúc chín giờ tối. Quá thô lỗ.
Nhưng nếu cô rời khỏi đây, cô sẽ đi đâu? Quay trở lại với sự tĩnh lặng trong ngôi nhà cô đơn, về với miền đất tối tăm của ký ức mà cô nên để yên ư?
Cô mở cửa, bước ra.
Đêm bao bọc lấy cô, làm cô lạnh giá. Cô ngửi thấy mùi mùa thu. Một đám mây xám nặng trĩu trôi qua, rải những hạt mưa lên lối đi.
Cô đi vội vã tới gõ vào cửa chính.
Mira gần như mở cửa ngay lập tức. Chị đứng ở lối vào, mặc một bộ đồ thể thao bằng vải jersey cũ và đi đôi dép trong nhà hiệu Grinch. Mái tóc dài của chị xõa ra; chúng đổ rối bời trên hai vai chị. “Chị tự hỏi không biết em còn định ngồi đó bao lâu nữa.”
“Chị biết à?”
“Em đùa chắc? Kim Fisk gọi điện từ lúc em vừa dừng xe. Andrea Schmidt gọi sau năm giây. Em đã quên sống trong khu phố nó như thế nào rồi.”
Angie cảm thấy mình thật ngốc. “Ồ.”
“Vào đi nào. Chị đoán thế nào em cũng tới.” Chị đi trước theo lối hành lang trải vải nhựa và rẽ vào phòng gia đình, nơi có một màn hình ti vi to đặt trong chiếc tủ âm tường lớn màu nâu. Hai ly rượu đỏ đã chờ sẵn trên chiếc bàn nước bằng gỗ sồi.
Angie không thể không mỉm cười. Cô ngồi xuống ghế sô pha và với tay lấy một ly rượu. “Mọi người đâu cả rồi?”
“Mấy đứa bé thì ngủ rồi, mấy đứa lớn đang làm bài tập, và tối nay Vince đi chơi bowling.” Mira duỗi chân trên sô pha và nhìn Angie. “Thế nào?”
“Thế nào gì ạ?”
“Em chỉ lái xe đi loanh quanh trong đêm thôi hả?”
“Đại loại thế.”
“Nào, Angie. Livvy nghỉ việc. Mẹ sẽ đấu tranh vì món lasagna và nhà hàng thì đang lỗ vốn.”
Angie ngước lên, cố gắng mỉm cười. “Và đừng quên rằng em đang học cách sống một mình.”
“Nhìn bề ngoài mà nói, việc đó không ổn thì phải.”
“Không.” Angie nhấp một ngụm rượu. Có lẽ phải hơn một ngụm. Cô không thực sự muốn nói về đời mình. Chỉ tổ làm cô tổn thương. “Em phải thuyết phục Livvy quay lại.”
Mira thở dài, rõ ràng là thất vọng vì Angie thay đổi chủ đề. “Lẽ ra bọn chị cũng nên nói với em là chị ấy đã muốn nghỉ từ mấy tháng nay rồi.”
“Vâng. Giá mà em biết trước như thế thì tốt hơn.”
“Hãy nhìn vào mặt tích cực. Sẽ có ít người khó chịu hơn khi em bắt đầu thay đổi các thứ.”
Vì một lý do nào đó, từ thay đổi gây ấn tượng mạnh với Angie. Cô đặt ly rượu lên bàn và đứng lên; sau đó cô tiến về phía cửa sổ, nhìn ra ngoài, làm như thể vị trí của cô có vấn đề.
“Angie?”
“Em chẳng biết dạo này em bị làm sao nữa.”
Mira tiến đến bên cô, chạm vào vai cô. “Em cần phải sống chậm lại.”
“Ý chị là gì?”
“Kể từ khi em còn là một cô bé, em luôn luôn chạy đến cái mình muốn. Em rời khỏi West End ngay khi có thể. Tommy Matucci tội nghiệp cứ hỏi han về em suốt hai năm trời sau khi em đi, nhưng em chẳng bao giờ gọi cho cậu ta. Rồi em vội vã học xong cao đẳng và leo lên những nấc thang trong ngành quảng cáo.” Giọng chị chùng xuống. “Và khi em cùng Conlan quyết định lập gia đình, ngay lập tức em muốn theo dõi kỳ rụng trứng và cố thụ thai.”
“Có ích gì đâu.”
“Vấn đề là ở chỗ, giờ đây em thất bại, nhưng em vẫn giữ tốc độ tối đa. Dù em đã xa rời Seattle và cuộc hôn nhân đổ vỡ, về với West End và nhà hàng đang lỗ. Làm sao em có thể hiểu được mình muốn gì khi lúc nào mọi thứ cũng mờ mịt?”
Angie nhìn vào bóng mình trên cửa sổ. Làn da cô nhợt nhạt, đôi mắt cô trông như bị sưng lên bởi bóng tối, và miệng cô mím lại như một đường kẻ. “Chị thì biết gì về chuyện muốn?” cô nói, nghe thấy niềm đau trong giọng mình.
“Chị có bốn đứa con và một người chồng yêu đội bowling gần bằng yêu chị, và chị chưa bao giờ phải làm việc với một người chủ là người dưng nước lã. Trong lúc em gửi bưu thiếp cho chị từ New York, London hay Los Angeles, thì chị cố gắng tiết kiệm để có tiền cắt tóc. Tin chị đi, chị biết thế nào là muốn chứ.”
Angie muốn quay lại và đối diện với chị mình nhưng cô không dám. “Em sẵn sàng đổi tất cả - những chuyến đi, phong cách sống, sự nghiệp – để lấy một trong những đứa nhỏ trên gác.”
Mira chạm vào vai cô. “Chị biết chứ.”
Angie rút cuộc cũng quay lại và ngay lập tức biết rằng đó là một sai lầm.
Mắt Mira ngấn nước.
“Em phải đi đây,” Angie nói, giọng khản đặc.
“Đừng…”
Cô đẩy Mira sang một bên và chạy về phía cửa trước. Bên ngoài, mưa táp khiến cô mờ mắt. Chẳng cần quan tâm, cô chạy đến chỗ xe hơi. Tiếng gọi của MiraQuay lại đi vang vọng phía sau cô.
“Em không thể,” cô nói, giọng quá nhỏ, chị cô không thể nào nghe được.
Cô trèo vào trong xe và sập cửa lại, khởi động máy và lùi xe ra trước khi Mira có thể chạy theo cô.
Cô lái xe lên phố này rồi lại xuôi phố khác, gần như chẳng nhận ra mình đang ở đâu. Radio được bật rất to. Lúc này Cher đang hát cho cô nghe bài “Believe.”
Cuối cùng, cô thấy mình đỗ xe trong bãi đỗ của siêu thị Safeway, giống như một con thiêu thân bị hút vào ánh sáng.
Cô ngồi đó dưới ánh đèn đường sáng chói, chăm chú nhìn những hạt mưa đập vào kính chắn gió.
Mình có thể đánh đổi tất cả.
Cô nhắm mắt. Chỉ cần nói những chữ ấy thành lời cũng khiến cô cảm thấy đau.
Không.
Cô sẽ chẳng ngồi đây mà ngẫm về chuyện ấy. Đủ là đủ. Đây chắc chắn là lần cuối cô thề sẽ quên đi những điều không thể đổi thay.
Cô sẽ đi vào trong cửa hàng, mua ít thuốc ngủ bán không cần toa thuốc, và chỉ lấy đủ để cô có thể qua được đêm nay.
Cô ra khỏi xe và đi vào cửa hàng sáng trưng. Ở đây sẽ chẳng có ai trong gia đình cô hết, cô biết vậy. Họ chỉ mua sắm ở cửa hiệu quen trong thị trấn.
Cô đi thẳng đến dãy bán thuốc aspirin và tìm thấy thứ cô muốn tìm.
Cô đi được nửa đường ra chỗ quầy tính tiền thì nhìn thấy họ.
Một người phụ nữ gầy như một cây sậy, mặc quần áo bẩn thỉu mang theo ba tút thuốc lá và một két mười hai chai bia. Bốn đứa trẻ ăn mặc lôi thôi đang ầm ĩ xung quanh chị ta. Một trong mấy đứa trẻ - đứa bé nhất – đòi ăn bánh vòng, và người mẹ giật bánh khỏi tay nó.
Khuôn mặt và mái tóc mấy đứa trẻ trông bẩn thỉu; giày thể thao của chúng thủng lỗ.
Angie dừng lại; hơi thở của cô trở nên nặng nề. Nỗi đau lại trào lên. Nếu có ích gì, hẳn cô đã ngước nhìn lên Chúa và van xin, Tại sao?
Tại sao một số phụ nữ có thể sinh con thật dễ dàng, trong khi số khác...
Cô bỏ lại hộp thuốc ngủ và đi ra khỏi cửa hàng. Bên ngoài, mưa quất mạnh vào cô, hòa lẫn với nước mắt.
Trong xe, cô ngồi lặng yên, nhìn qua kính chắn gió lấm tấm nước. Rồi cũng đến lúc, gia đình kia đi ra khỏi cửa hàng. Họ xếp đồ vào chiếc xe đã tả tơi và lái đi. Chẳng đứa trẻ nào thắt dây an toàn hết.
Angie nhắm mắt lại. Cô biết rằng nếu cô ngồi đây đủ lâu, chuyện sẽ qua đi. Đau khổ giống như một đám mây mưa; trước sau gì, nó cũng tan đi, nếu ta kiên nhẫn. Tất cả những gì cô cần làm là hít thở...
Có cái gì đó đập vào kính xe.
Cô mở mắt ra.
Một tờ rơi màu hồng dính trên kính xe cô. Trên đó viết: Cần việc làm. Ổn định. Đáng tin cậy.
Trước khi cô kịp đọc tiếp, mưa đã ngấm vào tờ rơi và làm nhòe hết mực.
Angie ngả người sang chỗ ngồi bên cạnh và quay kính xe xuống.
Một cô gái có mái tóc đỏ đang đi thả tờ rơi. Cô gái mặc một chiếc áo khoác đã sờn, một chiếc quần jean bạc màu và di chuyển từ xe này sang xe khác, mặc kệ trời mưa.
Angie không nghĩ ngợi. Cô phản ứng. Ra khỏi xe, cô hét to, “Này cháu!”
Cô gái ngước lên.
Angie chạy về phía cô gái. “Cô có thể giúp gì cháu không?”
“Không ạ.” Cô gái tiếp tục di chuyển ra xa.
Angie cho tay vào túi áo khoác và rút tiền ra. “Đây này,” cô nói, ấn nắm tiền vào bàn tay ướt, lạnh của cô gái.
“Cháu không nhận được đâu,” cô gái thì thầm, lắc đầu.
“Cháu cầm đi mà. Vì cô.” Angie nói.
Họ nhìn vào mắt nhau một lúc lâu.
Cuối cùng cô gái gật đầu. Nước mắt dâng trào. “Cám ơn cô.” Rồi cô gái quay đi và chạy vào bóng đêm.
LAUREN LEO LÊN CẦU THANG TỐI TĂM ĐI VỀ PHÍA CĂN HỘ. MỖI BƯỚC ĐI như rút thêm một chút gì đó trong người cô, cho tới lúc cô tiến đến cửa ra vào của bà Mauk, Lauren chắc rằng bằng cách nào đó, cô đã thu nhỏ lại. Cô cảm thấy mệt mỏi vì cảm giác cô đơn và yếu đuối.
Cô dừng lại, chăm chú nhìn vào mớ tiền ướt trong tay. Một trăm hai lăm đô la.
Vì cô, người phụ nữ ở bãi đỗ xe đã nói vậy, như thể chính cô ấy mới là người cần được giúp.
À, phải. Lauren biết thế nào là sự bố thí khi cô đối mặt với việc đó. Cô những muốn từ chối, muốn cười nhẹ và nói Cô nhầm rồi. Thay vào đó, cô chạy một mạch về nhà.
Cô lau khô nước mắt còn đọng lại trên mi và gõ cửa.
Bà Mauk mở cửa. Khi nhìn thấy Lauren, nụ cười của bà nhạt đi. “Cháu ướt hết rồi.”
“Cháu ổn mà,” Lauren nói. “Đây ạ.”
Bà Mauk cầm tiền và đếm. Dừng một lát, rồi người phụ nữ nói, “Bác sẽ chỉ lấy một trăm thôi, nhá? Cháu đi mua cho mình cái gì tử tế mà ăn đi.”
Suýt nữa thì Lauren lại khóc. Trước khi nước mắt trào ra, cô quay người đi và chạy về phía cầu thang.
Trong căn hộ, cô gọi to tìm mẹ.
Yên lặng đáp lại cô.
Thở dài, cô quẳng ba lô lên ghế sô pha và đi về phía tủ lạnh. Tủ lạnh gần như trống rỗng. Cô đang định với lấy chiếc bánh kẹp ăn dở thì có ai đó gõ cửa.
Cô đi qua căn hộ nhỏ, bừa bộn và mở cửa ra.
David đứng đó, tay cầm một hộp các tông lớn. “Chào Trix,” cậu nói.
“Cái gì…”
“Anh đã gọi đến hiệu thuốc. Họ nói em không còn làm việc ở đó nữa.”
“Ồ.” Cô cắn môi. Giọng nói dịu dàng và ánh mắt thấu hiểu của cậu gần như khiến cô không thể chịu đựng nổi lúc này.
“Vậy là anh dọn sạch tủ lạnh ở nhà. Hôm qua mẹ có tiệc tối ở nhà và có vô khối đồ ăn ngon còn lại.” Cậu cho tay vào hộp và lấy ra một cuốn băng video. “Và anh mang cả cuốn băng Vua tốc độ đến.”
Cô cố mỉm cười. “Anh có mang cuộn băng có đoạn Trixie giải cứu tay đua không?”
Cậu liếc nhìn cô. Chỉ trong cái nhìn ấy, cô thấy mọi điều. Tình yêu. Sự cảm thông. Sự quan tâm. “Tất nhiên rồi.”
“Cám ơn anh.” Cô chỉ nói được có thế.
“Lẽ ra em nên gọi cho anh, em biết đấy. Khi em bị mất việc.”
David không biết được cảm giác đó, cảm giác bị mất đi một điều mà ta vô cùng cần có. Nhưng cậu đúng. Lẽ ra cô phải gọi điện cho cậu. Dù mới mười bảy tuổi, trẻ và đôi khi thiếu chín chắn, cậu vẫn là người ổn định nhất trong đời cô. Khi cô ở bên cậu, tương lai của cô – tương lai của họ - dường như tinh khiết và óng ánh như ngọc trai. “Em biết.”
“Giờ thì, nào, hãy lấy cái gì ăn đi và xem phim nào. Anh phải có mặt ở nhà lúc nửa đêm.”