M
alcolm rẽ trái vào con đường quen thuộc dẫn tới Domus Jefferson trên đỉnh ngọn đồi lớn. Chiếc xe dừng lại, hai ánh đèn pha phá tan sự tĩnh lặng vốn dĩ của quán trọ. Việc có bao nhiêu khách trọ hay họ có làm ồn ào gì chăng nữa, căn nhà lúc nào cũng trông giống hình vẽ trong quyển truyện tranh màu nước. Ngay cả khi mọi thứ hỗn loạn bởi ánh đèn xe cứu thương và xe cảnh sát, cùng bao nhiêu là người khóc than hôm Jack và Laurel qua đời, cũng chẳng thể phá vỡ sự tĩnh lặng muôn đời nơi ngọn đồi này. Jack gọi sự thanh bình của quán trọ là Tinh thần Jefferson. Malcolm thì gọi đó là ma quái.
Malcolm đếm được bốn chiếc xe: một chiếc Chevy El Camino đời 1979, một chiếc xe cảnh sát Woodstock, chiếc Volvo của mẹ và chiếc xe tải nhỏ không mui Chevy màu xanh lá cây của bố.
Malcolm tắt đèn xe và ngồi lặng thinh. Trên hành lang tối đen, anh nhớ lại hình ảnh mẹ mình đang ôm ấp một cậu nhóc gầy nhom trong bộ vét lễ phục màu xanh lơ. Bên cạnh cậu chàng là cô bạn mười bảy tuổi ngây thơ cùng đi dự buổi khiêu vũ của trường. Anh lách người ra khỏi vòng tay mẹ, cầm tay cô bạn nhảy dắt đi vờ như không trông thấy đôi tay đang dang rộng của bố. - Cẩn thận nha con, - anh nghe tiếng mẹ gọi với theo đằng sau khi dìu cô bạn gái của mình vào trong chiếc Limousine sang trọng màu trắng. Malcolm không nhớ nổi là anh có trả lời mẹ hay không. Anh chỉ có thể nhớ mùi nước hoa nơi cổ của Rain Jesperson khi cùng cô say sưa theo những điệu nhạc dưới cái đèn chùm lộng lẫy của khách sạn Marriott gần Harrisonburg.
Anh mở cửa chiếc xe thuê và bước ra ngoài, hòa vào buổi tối thanh bình của Woodstock. Anh mở cốp xe, lấy cái túi vải len và tiến vào quán trọ, chỉ có tiếng dép của anh lạo xạo nghiến lên lớp sỏi rải trên con đường dẫn vào nhà. Anh bước lên sáu bậc thang dẫn vào cái hành lang rộng lớn nổi tiếng, hình ảnh quen thuộc đặc trưng của Domus Jefferson vẫn thường được in trong các tờ rơi quảng cáo.
- Chào, Malcolm. - Một giọng nói vang lên từ trong bóng đêm.
Malcolm giật mình.
– Ai đó? - Anh bỏ giỏ xách xuống và xoay qua nhìn hai người đàn ông – mục sư – đang ngồi trên hai trong sáu chiếc ghế đá ở hành lang, gương mặt họ chìm trong bóng tối.
- Xin lỗi, ta tưởng con nhìn thấy bọn ta. - Một trong hai người đàn ông đứng lên nói.
- Ôi trời, sao cha nghĩ vậy? Sợ chết m...
- Malcolm! - Mục sư nạt, giọng phật ý hết sức.
- Con xin lỗi, cha B.
- Rất mừng được gặp lại con. Và con còn nhớ mục sư Doug White chứ.
- Tất nhiên. Chào cha.
Mục sư Doug đứng dậy và bắt tay Malcolm.
Mục sư Doug và mục sư Braithwaite cao ngang nhau và cũng xấp xỉ tuổi nhau. Tóc của mục sư Braithwaite vẫn được chải láng coóng và không có vẻ gì là mọc dày hơn hay thưa bớt đi so với cái ngày Malcolm gặp ông lần đầu tiên khi đi dự lễ hồi còn nhỏ xíu, và anh vẫn thường làm trái lại với những lời răn của ông. Phần tóc trên mang tai của mục sư vẫn được cắt tỉa hoàn hảo còn phần mái ôm sát vầng trán bóng lưỡng. Ông mặc thường phục với chiếc áo sơ mi trắng, cà vạt xanh dương và cái áo khoác thể thao màu xanh đồng bộ.
Trái lại, mục sư Doug lúc nào cũng xuề xòa và tối nay cũng không khác gì mấy. Những sợi tóc thưa thớt mọc từ trên đỉnh đầu và mớ tóc mai dài, lởm chởm. Ông mặc áo gió đen bên ngoài cái sơ mi trắng, cái cà vạt đen bằng len nới lỏng gút trên cổ. Cái quần tây bằng vải polyester có vẻ như quá chật chội, thêm đôi vớ màu nâu nhạt lộ ra khỏi đôi giày quần vợt cột dây màu đen.
Khi Malcolm bắt tay mục sư Doug, các ngón tay của anh chạm phải vết sẹo nơi cổ tay ông. Malcolm thắc mắc lâu rồi, nhưng chưa dám hỏi.
Hai mục sư lúc nào cũng như hình với bóng, ít nhất là trong mắt Malcolm, cả chục năm nay. Mục sư Doug phục vụ tại một nhà thờ nhỏ ở Đường 7, Winchester và ngày ngày ông vẫn thường đi qua thung lũng Valley, bên cạnh ông là mục sư Braithwaite, một con người đầy ý thức trách nhiệm.
- A&P đã báo tin cho cha. - Mục sư Braithwaite nói. - Chúng tôi rất tiếc, Malcolm. Chúng tôi đến đây để giúp đỡ gia đình.
Malcolm gật đầu đáp lại và chợt bắt gặp cô em gái của mình đang chạ̣y ra mở cửa.
- Con đoán, con nghĩ, con thấy hình như có ai đó đang rất nóng lòng được gặp con. - Anh đáp và cố tình nói lớn tiếng. - Mà con mong đó là một trong mấy con heo đang tung tăng ngoài phố.
- Malcolm! - Giọng nói cất lên từ bên trong cửa kính. - Đừng nói về em gái mình cái kiểu đó chứ! – Samantha tông cửa chạy về phía anh trai, cầm theo cái ná thun và nã mấy phát vào giữa ngực anh, mạnh đến nỗi làm anh bật ngửa suýt ngã xuống cầu thang.
- Thôôôi mà, em gái! - Anh nói. - Anh biết là em đang nấp đâu đó quanh đây mà. - Anh gồng mình để giữ thăng bằng cho cả hai khỏi phải ngã. - Đâu có giống hai anh em mình không gặp nhau suốt hai năm nhỉ!
Samantha buông anh mình ra và đấm vào ngực anh một cái. – Bộ không đúng vậy sao anh Móc Câu?
- Lâu vậy sao? Thật không? Tưởng đâu mới ngày hôm qua anh còn được nghe em gọi anh kiểu đó.
- Anh sẽ được nghe nhiều nữa cho đến hết ngày hôm nay.
- Vậy ha! Nhân tiện, cháu gái của anh đâu?
- Ở nhà Godfrey. – Em gửi con bé ở đó từ khi em cho nó hay tin. Em không muốn Angela ở nhà một mình.
- Nói với Angie là ông cậu yêu dấu của nó đã về. Con bé sẽ vui lên ngay.
- Con bé biết, ông cậu ấy đã dẫn nó đi ăn kem từ hồi chiều rồi. - Samantha cười lớn ngay cả khi chưa kịp nói dứt câu mỉa mai của mình.
- Tốt, chúng ta nên để bọn con lại với nhau. - Mục sư Braithwaite ngắt lời, ông cúi xuống cầm lấy cái cặp da màu nâu. - Chúng tôi về trước đây. Mục sư Doug sẽ ở lại với gia đình cha vài ngày.
- Cha thật là tốt. - Samantha đáp.
Mục sư Braithwaite bước xuống cầu thang, mục sư Doug theo sau, ngang qua Malcolm, ông dừng lại một chút. - Rất vui được gặp lại, con trai. Ta rất buồn về việc của bố và mẹ con. - Ông đặt tay lên vai Malcolm và nhìn vào mắt anh.
- Cảm ơn, cha.
- Nếu các con cần xưng tội, bất kỳ đứa nào trong hai con, hãy gọi cha Braithwaite.
- Tốt quá. Cảm ơn hai cha. - Samantha nói lớn để cha Braithwaite có thể nghe được.
Mục sư Doug bước những bước dài, chậm rãi và thận trọng xuống cầu thang. Ông dừng lại ở bậc thang cuối cùng và vẫy cánh tay dài, gầy còm một cách vụng về trước khi chui vào xe của mục sư Braithwaite. Vài giây sau, chiếc xe từ từ lăn bánh xuống đồi và mất hút vào màn đêm.
- Những chú vịt ngộ nghĩnh hử? - Malcolm nói, quay lại nhìn Samantha.
- Thôi mà, nào, ôm em tiếp đi. - Samantha kéo anh lại gần, ôm anh thật chặt và cảm nhận được mùi nước sông phảng phất trong bộ râu ngổ ngáo của anh. - Không biết cái nào đáng sợ hơn, Mal, việc bố mẹ đã qua đời hay cái mùi kinh tởm phát ra từ anh. Lần cuối cùng anh tắm là khi nào vậy?
- Vài ngày trước, hơn cả tắm nữa, trong vũng bùn không có nhiều nước lắm.
- Ở Brazil hở?
- Ừ, Brazil.
- Mặc kệ, em không quan tâm cái mùi của anh, em mừng vì anh đã trở về. - Cô siết chặt vòng tay. - Em nhớ anh lắm, Mal.
- Anh là người đáng nhớ lắm, Sammie à.
Cô ngẩng đầu lên khỏi vai anh. - Em nghiêm túc đó. Anh chắc không chuẩn bị tinh thần cho điều này. Em đã biết trước không sớm thì muộn bố cũng ra đi. Nhưng còn mẹ? - Cô vùi đầu mình vào ngực anh và bắt đầu khóc.
- Thôi mà, mình đi vào trong nào. - Anh cầm cái túi và theo cô em gái vào nhà. Anh dừng ở sảnh chính vài giây nhìn quanh căn nhà yên tĩnh. - Matt có ở đây không?
- Anh ấy đi thăm Rosie và Rick Schwartz ở núi Jackson, nhưng anh ấy sẽ quay về. Anh ấy cũng ở đây. - Sam sụt sịt.
- Nhà Schwartz vẫn còn sống à? - Malcolm hỏi.
- Thôi mà Mal, anh đi chưa lâu lắm đâu. Rick vẫn còn làm ở phòng khám và Rosie vẫn là thị trưởng, cả chục năm nay rồi.
- Anh đoán là mọi thứ quanh đây không hề thay đổi, đúng không? - Một câu hỏi không cần trả lời.
- Không có gì thay đổi cả. - Nhưng Samantha vẫn trả lời. - Woodstock luôn là Woodstock và nhà Cooper vẫn luôn là nhà Cooper. Chẳng phải bố vẫn thường nói thế là gì.
Malcolm quẳng cái túi của mình dưới chân cầu thang và đi dọc hành lang vào bếp. Anh dừng lại một chút để chỉnh lại cái khung hình hơi bị méo, trong đó lộng một đồng xu cổ.
- Quán trọ nghe mùi hơi khác.
- Đó là vì không có ai nấu nướng. - Samantha ngồi xuống bên cái bàn ăn dài. Malcolm ngồi đối diện. Tranh của các anh hùng thời chiến và những vị tổng thống treo dọc theo vách tường có màu sơn hột gà. Những món đồ sành sứ đắt tiền trưng đằng sau cánh cửa kiếng của cái kệ cổ hàng thủ công mà Jack đã mua trong một cuộc bán đấu giá tại Waynesboro vào năm ông chuyển về Woodstock. Một bản vẽ kiến trúc phác họa lại ngôi biệt thự Monticello treo trên bức tường đối diện, giữa hai bức tranh của Jefferson và Washington. Sau lưng Malcolm là bức tranh Washington đang cầu nguyện giữa trời đầy tuyết tại thung lũng Forge. Đó là tác phẩm nghệ thuật yêu thích nhất của Jack.
- Anh còn nhớ mùi thơm của những món điểm tâm mẹ nấu không? - Samantha chống hai tay trên bàn. - Món bánh mì nướng của mẹ̣ đó! Bà đã ngâm mấy lát bánh mì nướng kiểu Texas vào bột làm bánh cả đêm. Và jambon Virginia nữa. Bữa sáng ngon đến nỗi khi ăn tối cũng còn thèm.
- Mẹ nấu được đấy chứ, nhỉ? - Malcolm gác hai tay ra sau đầu, các ngón tay đan vào nhau, và nhìn đăm đăm lên trần nhà.
- Đó là điều tuyệt vời nhất của mẹ. - Samantha đáp. - Giá như thời gian gần đây em ăn cơm nhà nhiều hơn.
Cả hai ngồi lặng thinh, ngắm nhìn những bức hình chụp cả gia đình và mấy tác phẩm mỹ thuật cổ treo dọc các vách tường. Và rồi Samantha gác đầu lên hai cánh tay đang khoanh trên bàn. Cô nhìn anh trai và thầm ngưỡng mộ dáng vẻ vạm vỡ khỏe mạnh của Malcolm. Mặc dầu mệt lả vì đường xa và với bộ râu dài lởm chởm, trông anh vẫn rất đẹp trai.
- Đám tang diễn ra khi nào? - Malcolm hỏi.
- Tối Chủ nhật tại nhà thờ. Lễ viếng vào thứ Bảy.
- Tang lễ vào Chủ nhật?
- Bố muốn thế. Ông đã xin nhà thờ thực hiện điều đó theo lời hứa. Em nghĩ thậm chí bố còn ghi giấy trắng mực đen khi ông thanh toán trước chi phí nữa.
- Ông đã thanh toán trước? Thế thì quá ... là...
- Quá là bố?
- Ừm.
- Và lễ viếng cũng ở nhà thờ luôn?
- Không, tại nhà tang lễ Guthrie ở Edinburg.
- Ariek Guthrie vẫn còn sống hả?
- Malcolm à.
- Xin lỗi nhỏ, cái tật hay đùa khó bỏ.
Samantha cười khúc khích và rồi cả hai lại ngồi lặng thinh.
- Cô ấy hiện đang ở nhà Guthrie, nếu anh định hỏi... - Sau vài phút im lặng Samantha nói.
- Ở đâu?
- Nhà Guthrie.
- Ai?
- Nancy Reagan, chứ anh nghĩ ai?
- Tốt. Nàng Nanster đó làm gì ở đây?
- Anh ngớ ngẩn vừa thôi. Anh biết ai mà.
Malcolm lại ngả người ra sau ghế nhìn lên trần nhà.
- Rain.
- Cô ấy hỏi thăm anh, anh biết mà.
- Cô ấy cũng còn sống luôn à?
- Thôi đi, Malcolm.
- Thôi cái gì? Anh chẳng hiểu em nói gì, Sam.
- Anh không muốn biết cô ấy giờ này ra sao ư?
- Có lẽ không.
- Nói dối.
- Được, cô ấy sao rồi?
- Thật đáng thương.
- Thế à.
Samantha nháy mắt.
- Và vẫn còn độc thân. - Malcolm ngồi ngay ngắn lại.
- Đám cưới đã bị hoãn ba lần. Nhưng lần đầu là một lý do chính đáng. Dì ruột của Rain ở tận Gaithersburg phải phẫu thuật và cần một người bên cạnh để chăm sóc trong vài tháng, do đó Rain đã lên ở với bà dì. Nathan nói điều đó là không thành vấn đề với hắn, tuy nhiên em biết là hắn rất điên tiết.
- Coi bộ em khoái chuyện đó lắm. - Malcolm cười.
Samantha nhoẻn miệng cười, nhưng không nói gì.
- Anh thật không tin được. Anh tưởng họ cưới nhau rồi.
- Thế đấy, thật khó mà liên lạc được với anh. Em đã cố gọi vào cái điện thoại ngu ngốc mà mẹ mua cho anh ít nhất là năm mươi lần.
- Tại anh ít khi mở máy. May là hôm thứ Năm em gọi được cho anh.
- Vậy anh đã ở đâu?
- Bơi thuyền trên sông Amazon, phía bắc Manaus, chụp hình và viết.
- Viết?
- Cuốn truyện của anh đó, nhớ không?
- Anh viết từ hai năm trước cơ mà, Mal. Em tưởng anh hoàn tất rồi.
- Anh cũng tưởng mình làm được. Anh là một ca “thiếu ý tưởng” trầm trọng.
- Chứ không phải đầu anh toàn sâu bọ trong ấy à? - Samantha cười.
- Cả hai. - Malcolm đáp.
Samantha giả vờ đập đầu mình xuống bàn. Cả hai phá lên cười như thời còn đôi mươi.
- Vậy bao giờ thì chúng ta có thể bàn về chuyện đó? - Samantha hỏi, sau một tràng cười hả hê.
- Lại nữa rồi đây.
- Không thể lẩn tránh mãi được.
- Thiệt tình. Anh ngạc nhiên sao mà em nhớ dai thế.
- Đâu có đơn giản vậy, Malcolm.
- Không đùa nữa. Anh đã nghĩ rằng Nathan hay đám đồng bọn của hắn đang đón lỏng anh.
- Hắn và anh Matt đang tìm cách. Anh có vài ngày thoải mái, nhưng sau khi đám tang bố mẹ hoàn tất, chúng ta sẽ phải đối mặt với nó.
- Matt thỏa thuận với Nathan để hắn tránh mặt anh? Đâu có dễ vậy.
- Đúng là không dễ vậy nhưng mọi thứ đã sắp đặt hết rồi. Anh Matt đang cố gắng vì anh đấy.
- Không đời nào! Em định sẽ giữ chặt lấy tay anh suốt ba ngày?
- Không hẳn, nhưng em cần chìa khóa của anh.
- Cái gì cơ?
- Chìa khóa xe của anh, Mal.
- Chắc em nói chơi hả!
- Em không đùa. Không được lái xe. Bằng lái của anh đã bị treo.
- Sao?
- Đó là quy định chung mà. Họ thu hồi bằng lái khi một người có vi phạm như anh muốn tìm cách rời khỏi thị trấn sau khi được bảo lãnh, anh nghĩ mà coi.
- Thôi mà nhỏ, anh sẽ ngoan ngoãn mà.
- Xin lỗi Mal, đây là nhiệm vụ của em – nhiệm vụ – là bất khả kháng.
Malcolm móc chùm chìa khóa ra khỏi túi quần soóc rộng lùng phùng và đẩy nó trượt qua bên kia bàn.
- Xin lỗi. - Samantha chộp lấy chùm chìa khóa.
- Anh biết. Và xin lỗi phải để em làm bảo mẫu cho anh.
- Không phải xin lỗi. Ít nhất là về vụ đó. - Samantha chồm người qua bên kia bàn cầm lấy tay Malcolm. - Anh đã hành động đúng đắn.
- Anh á?
- Đúng. Anh không cần trở về.
- Bố và mẹ đã mất. Sao mà anh không về được?
- Dù anh không về, em vẫn tự hào về anh. Bố và mẹ cũng thế.
- Để rồi xem em còn cảm thấy như thế vào tối Chủ nhật không nhé.
- Đừng gây rắc rối nữa Mal. Làm ơn?
- Thề có Chúa. - Malcolm làm dấu trên ngực thề thốt.
- Em yêu anh, ngốc ạ.