Khi những ngôi nhà sàn bản Si nhoè đi trong màn đêm, các tiểu đội dân quân cũng tập trung đông đủ tại ngôi nhà sàn nửa chìm nửa nổi giữa bản. Đây là hội trường bản Si, kiến trúc theo kiểu hầm tránh bom là địa điểm xuất phát của cuộc tuần tra. Bên trong, ánh sáng của những ngọn cà boong bập bùng chiếu sáng những thân người rắn chắc, những khuôn mặt đen bóng của các dân quân người Khùa. Đã thành thói quen, khi nhận được lệnh hiệp đồng tuần tra với đồn công an, dân quân các bản lại vai đèo a-chói, vai vác súng cắt đường về bản Si chờ nhận nhiệm vụ.
Đồn phó phụ trách công tác dân vận Hồ Phừn, người Khùa, đi lại giữa các nhóm dân quân đang chụm đầu bàn tán chuyện bản làng. Họ ở các bản khác nhau bám cheo leo bên vách rừng Cha Lo, Mụ Giạ, lâu lâu mới gặp nhau nên chuyện nhiều. Chuyện bắn máy bay Mỹ, chuyện săn chó sói, săn voi... Cái tẩu trên miệng Hồ Phừn um khói, thỉnh thoảng anh lại bứt nó ra cầm tay để nói chuyện với một dân quân nào đó. Anh có vóc người gầy, khuôn mặt xương, rám nắng, mái tóc rễ tre, tóc của con trai Khùa bị nắng thiêu đốt trên nương, dựng ngược như bàn chải, đã lốm đốm bạc. Một vết sẹo kéo dài từ thái dương trái xuống má làm một bên mặt sọm đi. Vết sẹo bắt ánh sáng cà boong bóng nhẵn như một mảnh kim loại.
Một cô gái bận váy đỏ, áo chẽn nâu, hàng khuy bằng những đồng bạc lóng lánh, tóc bới thành nắm to giữa đỉnh đầu, dấu hiệu gái chưa chồng của người Khùa, từ trong góc nhà bước đến mỉm cười với Hồ Phừn. Vóc ngươi cô thon thả, khuôn mặt trái xoan, da ngăm, môi đỏ mọng như hai trái ớt chín, đôi mắt đen ngơ ngác như mắt bê con. Đó là Y Lan, cô giáo người Khùa vừa học ở Trường sư phạm sơ cấp về. Y Lan năm nay tròn hai mươi mùa rẫy, như một cây lồ ô non đã đâm lá. Có những cô gái, thoáng nhìn, thấy rất bình thường, nhưng càng nhìn kỹ càng thấy có duyên và cái duyên thầm ấy cứ lan toả, cho đến một khi nào đó ta bỗng yêu say đắm. Y Lan thuộc loại những cô gái ấy. Y Lan không có vẻ đẹp lồ lộ, chói chang. Nhưng nghe Y Lan nói, giọng nói êm êm dìu dịu như tiếng suối mùa xuân, thấy Y Lan cười, đôi môi mọng đỏ chum chúm như một ngọn lửa, khiến người khác phải chú ý. vẻ đẹp của Y Lan tựa hương hoa phong lan vậy.
- Pú Phừn ơi, các công an sao chưa đến? Y Lan không giấu nổi sốt ruột hỏi Phừn, mặt đỏ bừng lên.
- A, cháu Y Lan. Bộ đội, công an sắp đến rồi đó. Cái bụng Y Lan nhớ công an Xứng lắm phải không?
Y Lan chạy biến vào góc nhà. Ôi! Pú Phừn nói như cầm được suy nghĩ trong đầu Y Lan vậy. Y Lan nhớ anh Xứng lắm. Nhớ như ngọn lá nhớ ông mặt trời, như hạt thóc giống nhố đất trên nương. Không nhớ Xứng mà Y Lan lại từ bản Sương lội suối băng rừng xuống đây à?
Tiếng khèn bè bỗng nổi lên rung rinh ánh lửa cà boong. Phừn biết Hồ Sa Nôn, một dân quân trẻ đang thổi chiếc khèn ấy. Các cô gái cười rúc rích theo, rồi hát theo nhịp khèn.
ơ... ơ con suối chảy xuống, con chim bay lên Anh như con suối để Ún uống khỏi khát Như con chim đê Ún theo mắt mờ Đã yêu nhau thì tóc bạc răng rụng củng chờ Đất không còn núi Phu Ác vẫn chờ Suối Y Leng không còn nước vẫn chờ ớ... ơ Phừn sà đến bên Hồ Sa Nôn. Mỗi khi nghe tiếng khèn bè, Phừn lại cảm thấy rạo rực như có con chim khà - lật hót trong bụng, như con suối Y Leng chảy trong bụng. Anh ra đòi vào một đêm con suối Y Leng gào rú cuốn trôi những cây khúc, cây lim về xuôi. Lớn được ba mùa rẫy, Phừn đã biết cầm khèn bè thổi tò te. Bố anh, một ông già Khùa thổi khèn bè hay nổi tiếng khắp mấy bản. Ông đã truyền cho đứa con trai lòng yêu thích chiếc khèn dân tộc mình. Khi cao bằng thắt lưng bố, Phừn đã thổi khèn bè thành thạo.Vào rừng đặt bẫy đơm được con nai, con mang, Phừn đem khèn ra thổi.Lên nương trỉa hạt ngô, hạt lúa, Phừn đem khèn ra thổi... Chiếc khèn bè với những ống nứa lên nước óng nuột như được chuốt mật ong lúc nào cũng nhảy toòng teng sau lưng Phừn. Tiếng khèn bập bùng, lang thang theo bản Sương trong những chuyến ròi làng. Khi đôi vai anh cao hơn vai bố, cánh tay anh rút đứt sợi dây song, tiếng khèn của Phừn gọi lũ con gái thiết tha bên suối Y Leng. Con gái đến vây quanh anh hát theo tiếng khèn từ lúc ngôi sao hôm cháy trên cành mây, đến lúc lá rừng bén nắng sớm mai. Nhưng anh vẫn cảm thấy lẻ loi, buồn chán. Dân bản như con hươu, con nai bị săn đuổi từ ngon núi này đến ngọn núi khác mà tiếng súng thằng Pháp vẫn bắn theo. Và vào một đêm, khi Phừn cất tiếng khèn bên bờ suối, một người đã đến với anh. Người ấy không phải cô gái anh yêu nghe tiếng khèn anh đến tâm tình. Người ấy là một chiến sĩ cách mạng. Phừn như ngọn lá rừng được nắng, như con chim tìm được đường bay, anh mang theo cây khèn đi kháng chiến.
Phừn cầm chiếc khèn Hồ Sa Nôn trao cho, đưa lên miệng, âm thanh ngọt ngào tuôn chảy từ những ngón tay lấy nhịp của anh. Căn nhà lắng xuống, tràn ngập điệu nhạc, ngày ấy, cái ngày xưa mà anh theo cách mạng... anh đi trong đoàn quân tiến đánh đồn Quy Đạt, Tân Sum... Cái ngày giải phóng, dân tộc anh được mang họ Hồ, họ của Bác Hồ Chí Minh...
- Pú Phừn thổi hay như con chim cà liếng hót đó.
- Như tiếng suối Y Leng chảy nữa đó!
- Nghe tiếng khèn Pú Phừn, tao như bay theo ngọn gió.
- Pú Phừn thổi khèn gọi được con gái đó!
Các cô quây lại khen Phừn làm anh đỏ mặt, mặc dù anh đã gần năm mươi tuổi, bằng tuổi bố của các cô. Anh như trẻ lại trong âm điệu ngàn đời ru người dân Khùa cơ cực của anh.
- Mình chỉ muốn khèn hay gọi được rừng Phu Ác cúi xuống để công an biên phòng lên! - Phừn nói
Một cụ già bước đến bên Phừn, đưa tay nắm lấy tay anh.
- Thằng Phừn! Chuyến này công an biên phòng với dân quân xã ta lên đánh thằng biệt kích ở Phu Ác phải không? - Người già hỏi Phừn. Anh quay lại và nhận ra cụ Hồ Sa Đa. Cụ ở bản Sương, năm nay đã ngoài một trăm tuổi, nhưng người vẫn quắc thước, râu bạc trắng như cước, da đỏ như gỗ lim. Cụ có giọng nói trầm trầm như tiếng của những thế kỷ trước vọng về. Đứng bên cụ, Phừn thấy như đứng bên một cây cổ thụ. Mỗi lần công an biên phòng, dân quân ra đi tiễu phỉ, cụ đều băng rừng đến gặp. Cụ vừa đi cùng tiểu đội dân quân bản Sương xuống bản Si lúc chập tối.
- Pú ạ, đơn vị công an và dân quân ta lần này lên Phu Ác theo đường tắt đó.
- Đường tắt nào? - Ngọn cà boong soi rõ khuôn mặt vuông vức của cụ. Khuôn mặt trải qua bao mưa nắng và những thăng trầm của cuộc đời, giờ đây đã rắn đanh lại, tưởng như không còn một cảm xúc nào có thể hiện lên được nữa, bỗng ngạc nhiên trước câu nói của Phừn. Bàn chân tao đã lội qua trăm con suối, đạp lên trăm vách lèn, cây lim cây táu sinh sau tao đã chết, con trâu rừng, con sơn dương sinh sau tao đã chết mà tao chưa lên Phu Ác bằng đường tắt được. Ông rút cây mác đeo sau lưng hoa lên một vòng. “Công an biên phòng Pú Hồ, dân quân Pú Hồ lên được, tao khen lắm đó!”
Cụ Hồ Sa Đa bỗng nhớ đến cách đây một trăm năm về trước, khi con suối Y Leng còn xắn quần lội qua được, khi ông một mình đánh quỵ con trâu rừng mảnh sừng của nó ông còn đeo trên ngực, ông đã một lần qua Phu Ác. Một nhóm lính của Phan Đình Phùng thất, trận rút lên đó và cụ đi theo dẫn đường. Năm sáu chục người bị lạc vào giữa những dãy núi đá Phu Ác. Sau hai lần con trăng tròn, họ không tìm được đường sang Lào, mọi người đã chết đói, cuối cùng chỉ còn một mình cụ giữa bốn phía vách lèn dựng đứng. Cụ tìm một xâu củ nâu đeo vào người liều chết nhảy vào một hang đá, lần theo dòng suối chảy ngầm trong đó. Hang đá tối mù mịt phải mò mẫm dò từng bước một. Và khi xâu củ nâu đã sắp hết, sức của cụ không bước qua nổi tảng đá cao ngang đầu gối nữa thì bỗng một vòm sáng hiện lên trước mặt. Đó là một lỗ hổng của lèn đá. Cụ đã thoát khỏi vòng vây quái ác của thiên nhiên. Bẵng đi một thời gian, cụ không trở lại cái của hang đã cứu sống cụ đó nữa. Rồi dần dần, khi lên ngọn nguồn, khi về chân núi, trôi theo cuộc đời du canh du cư của dân bản, cụ cũng quên mất kỷ niệm ấy.
Mãi đến những năm gần đây, Công an biên phòng đánh nhau với bọn biệt kích ở Phu Ác, cụ mới sực nhớ đến cái hang năm xưa. Cụ nhố nó mà cứ tưởng nhớ câu chuyện cổ tích của người Khùa vậy. Cụ ném vào chói năm tip xôi, mài cây mác mòn hòn đá bên suối, xẻ rừng đi tìm hang đá, mong rút ngắn những cuộc hành quân của công an biên phòng và dân quân lên Phu Ác. Nhưng nhiều lần đi như vậy, cụ đều trở về đâm cây mác vào cột nhà, bực tức vì chẳng tìm ra.
Căn nhà bỗng vang lên tiếng kêu mừng rỡ của các dân quân. Từ bên ngoài, tiếng cười của đồn trưởng Tạ đã vọng vào. Phân đội công an biên phòng đã đến. Tiếng chào nhau đan chéo, ồn ã. Cụ Hồ Sa Đa nhảy ra cửa, cầm lấy bàn tay của đồn trưởng Tạ giơ lên, nói lớn:
- Hỡi lũ con gái, lũ con trai, hãy đốt cà boong cháy sáng hơn nữa để ta nhìn rõ những đứa con của bản!
Đuốc cà boong được thắp nhiều thêm. Những ngọn lửa sáng trắng múa may reo cười. Các mê bản bưng ra mấy thùng nước chè xanh nấu với gừng tươi đặc quánh, thơm lừng. Cụ Hồ Sa Đa cầm bát múc nước chè phân phát cho từng chiến sĩ. Hồ Sa Nôn chút của cụ đang bá lấy vai Xứng nói cười hởi hả. Hai người kết xiều với nhau trong trận đánh thô phỉ năm ngoái. Nôn yêu cái thông thạo núi rừng của Xứng, còn Xứng phục cái gan lì của Nôn.
- Tao phải đi một tổ với anh - Nôn cầm tay Xứng lắc lắc. Xứng đưa tay gãi đầu cười thân mật.
- Nhất, nhất định rồi! - Mắt Xứng bỗng mở to hơn. Một cô gái bước tới. Nôn né sang chỗ khác cười tủm tỉm. Y Lan, hai bàn tay đan vào nhau vặn vẹo trước ngực, ơi anh Xứng, sao anh không tìm em thế hở? Anh có biết em mong gặp anh như lá mong gặp nắng, như con vượn mong gặp cây dâu da mùa quả, như con ong mong gặp hoa bông trang không? Nghe tiếng anh em như có con chim cà liếng nhảy trong bụng, thấy bóng anh em như con cá thấy đường đến vực sâu. Em vẫn nhớ lời anh, qua cái mùa rẫy năm nay ta cưới nhau. Ta cưới không có chín con trâu, chín con lợn, chín con gà làm lễ cúng thần rừng, đãi dân làng như người Khùa của em ngày cưới. Pú Sa Đa đã hứa cho ta cưới bằng một đêm một ngày thổi khèn bè, hát đổi nhau. Anh đã cầm tay em, đèo vào cổ em sợi chỉ đính hôn em đã cầm tay anh, đeo vào cổ tay anh bảy vòng chỉ vía. Cái ngày anh hứa với dân bản đính hôn em, em thương anh biết chừng nào. Anh phải lên rừng bắn cho được một con chó sói theo tục lệ người Khùa, khi người dân tộc khác muốn lấy vợ người Khùa. Anh đi ba ngày không về, đi bảy ngày không thấy. Em khóc hết nước mắt vì tưởng anh bị chó sói cắn chết, không về nữa. Em là cô giáo nên làm sao chống lại cái tục lệ người Khùa. Em muốn theo anh, nhưng người Khùa không muốn, vì sợ hai người không giết được chó sói, trốn dân làng, đi lên dãy Giảng Màn sống với nhau. Bảy ngày em không ngủ, bảy ngày em nhịn cơm, cái bụng em đi theo anh. Ngày thứ tám anh về, không chỉ giết một con chó sói mà giết được 2 con. Rồi dân bản lại theo tục lệ, bắt anh phát một cái rẫy, mười lăm ngày sau cây khô, đứng cuối ngọn gió châm lửa. Nếu lửa cháy hết rẫy, anh mới là rể người Khùa được. Em lo quá, thế mà ngọn lửa đã cháy hết rẫy trong tiếng cười vui của pú Sa Đa...
Hai người nhìn nhau một lúc lâu, Xứng mới lên tiếng:
- Em cũng ở đây à Y Lan?
- Nhớ anh thì cái chân em đến, chứ cái bụng em giận anh đấy Xứng à! - Y Lan làm hờn.
- Em giận anh thì giận cả đời. Mấy ngày nay anh bận quá! Thằng biệt kích đến Phu Ác roi!
Pú Sa Đa múc nước chè đang sôi trong thùng chia cho công an và dân quân. Cụ đưa cho Xứng một ống lồ ô nước chè. Thấy Xứng và Y Lan đang nói chuyện với nhau, cụ cười lớn:
- Hai đứa lại giận nhau phải không? Y Lan, cháu vui lên cho công an Xứng nó vui cái bụng, cho chân nó có cái cánh con đại bàng, cho mắt nó có cả mắt con linh dương. Ta không bắt công an Xứng ở rể ba năm cưới nhau ba lần như người Khùa ta đâu mà. Cháu cứ yên cái bụng đi!
Ngay trong đêm, phân đội công an vũ trang và dân quân Khùa lên đường. Có tiếng khóc và cả tiếng cười.