Khác với các chiến trường khác: kẻ địch nằm trên hướng xung phong hoặc trong tầm ngắm xạ kích, chiến trường của các chiến sĩ công an vũ trang không có kẻ địch như thế. Kẻ địch của họ lẩn lút vào bóng đêm, ẩn mình vào sự hiểm trở của thiên nhiên. Trong màu xanh hoang vu bao la tưởng chừng yên tĩnh của biên giới, đã hàng ngày hàng giờ xảy ra cuộc chiến đấu dai dẳng, gay go. Dép cao su dày non nửa gang tay mòn rẹt đi, đế giày xơ tướp trên lưỡi đá tai mèo, vớ chống sên rách toạc, các chiến sĩ biên phòng quanh năm cần cù xuyên rừng tìm kẻ địch.
Nếu kẻ thù bằng xương bằng thịt luôn luôn giấu mặt thì kẻ thù thứ hai lại sừng sững trước mặt, giơ nanh vuốt ra đe doạ: đó là sự hiểm trở của thiên nhiên. Kẻ thù này im lặng và hiền từ, khêu gợi hồn thơ khi đứng xa ngắm nhìn. Nhưng hãy coi chừng! Khi đụng vào nó, nó trở nên hung hãn, đè chết con người trong trận bão rừng, giam hãm con người trong một thung lũng khô cằn bằng những bức tường đá, hất con người từ trên vách lèn xuống vực sâu, nuốt chửng con người trong trận lũ.
Đê đánh bại kẻ thù thứ nhất, các chiến sĩ biên phòng phải chiến thắng kẻ thù thứ hai.
Phân đội truy lùng do đồn trưởng Tạ chỉ huy đã lên đường được năm ngày nay. Sau hai ngày vượt điểm cao 1124, phân đội quặt về hướng nam, băng qua thung lũng Phu Con Kên.
Phu Con Kên, cái lòng chảo quanh năm ngập ngụa nước. Những cơn mưa giông mùa hạ xói mòn đất đá trên các sườn núi, ập xuống lòng chảo, bùn lắng đọng tạo thành đầm lầy. Mùa khô, nước rỉ ra từ các hẻm núi rồi chảy dồn về đây. Cây rì rì tốt tươi, cành lá đan quấn nhau, tạo thành tấm màn xanh quanh năm phủ kín mặt nước. Lá cây rụng xuống, xác chết của thú vật từ trên các dãy núi theo nước cuộn về thối rữa. Nước vàng óng, lệt sệt, bốc lên mùi hăng hắc, khẳm lặm, khó thở.
Phân đội tiến sâu vào lòng chảo. Sáng kiến của đội trưởng Thịnh có hiệu quả. Ba ngày dầm chân trong bùn nước chưa có ai phải dùng đến lọ thuốc đỏ trong túi thuốc của phân đội. Nhưng lớp bùn quái ác sâu đến hơn gang tay đã nhanh chóng hút kiệt sức lực của những đôi chân. Điều đó làm đồn trưởng Tạ lo lắng. Càng đi sâu vào thung lũng lớp bùn càng sâu dần.
Mưa phùn vẫn bay xuống một cách lặng lẽ trên tán lá lì rì. Thung lũng vắng vẻ, thâm u. Ánh sáng vốn đã nhạt của mùa đông bị tầng lá chặn lại, chỉ còn lọt xuống đủ để nhìn rõ mọi vật trong tầm vài chục mét trở lại. Khó có thể phân biệt được thời gian bằng cường độ ánh sáng. Đang giữa trưa mà trời xâm xẩm như bắt đầu tối. Nước mưa đọng trên lá cây rơi lục bục trên mặt nước. Tiếng rơi nghe hoang dã, xa xưa làm cho rừng già càng im ắng, quạnh quẽ hơn.
Gần ba chục chiến sĩ ba lô vồng lên sau lưng, súng AK đeo chéo ngang hông, theo đội hình chiến đấu nhích dần lên phía trước. Trời mưa rét là thế, nhưng chẳng ai mang áo mưa. Rừng già với những lùm cây rậm rạp đầy gai nhọn và dây leo không cho phép con người chống lại thiên nhiên bằng những phương tiện thông thường. Dầm mưa, xuyên rừng đã trở thành thói quen của các chiến sĩ. Họ chỉ giữ khô cho vũ khí và lương thực. Túi đựng gạo tuần tra không phải bằng bao tải mà được khâu bằng vải nhựa. Bao đạn cũng được lót một lớp ni lông bên trong. Mỗi người còn mang sẵn thêm vài dải ni lông dành phần che mưa cho khẩu súng. Các chiến sĩ dầm trong mưa, áo quần ướt sũng, xanh sậm như mới nhuộm lại, dán chặt vào da, bốc hơi.
Đồn trưởng Tạ đi ở tổ thứ hai. Tổ trinh sát đi đầu do Xứng chỉ huy. Mỗi khi đường đi bị nghẽn, đồn trưởng lại bươn tới tổ trinh sát, cùng lùng sục, mở hướng. Ông rất hiểu mỗi chuyến xuyên rừng, vất vả nhất là các anh trinh sát. Cứ trông cậu Xứng đó thì đủ biết. Chân tay không lúc nào ngót việc, vừa phải căng mắt tìm đường, vừa phải tập trung đầu óc để xác định đúng hướng hành quân. Lúc đường bị nghẽn, toàn phân đội dừng lại và được nghỉ ngơi, riêng tổ trinh sát phải luồn lách hết lối này đến lối khác, mệt phờ râu trê. Biết thế nên bữa ăn nào, đồn trưởng Tạ cũng cầm một hộp thịt mở sẵn, cắt làm tư, lặng lẽ đến đặt vào vung cơm của bốn cậu trinh sát. Mỗi lần như thế, các cậu trinh sát lại giãy nảy lên "thủ trưởng chiều quá, cho anh em khác với", ông phải ngồi bên cạnh, hầm hè không cho cậu nào mang thịt đi chia cho người khác. "Các đồng chí thương anh em thì gắng mà ăn đi" - Ông nói trong khi âu yếm nhìn tô trinh sát ăn cơm. Ông thương anh em lắm, có giành cho họ miếng ngon, họ cũng không nuốt nổi.
Tổ trưởng trinh sát Xứng cúi khom người chui qua một bụi lau. Nước mưa đọng trên lá cây rơi rào rào. Hồ Sa Nôn bám theo sau. Mắt Xứng mở to nhìn xung quanh rồi anh nhằm một hướng cây thưa lội ào tới. Đôi giày vải của anh dính bùn đen như bốt cao su. Đến bên một gốc cây, anh dựa ba lô lên một nhánh củi, đứng chờ Hồ Sa Nôn và hai chiến sĩ trinh sát.
- Cái ông Pi Ta Go người ở đâu hở anh Xứng? - Hồ Sa Nôn bước tới hỏi Xứng.
- Ông là người... Xứng đưa tay gãi đầu, bối rối trước câu hỏi của Nôn - Mà xiều hỏi ông ta làm gì, cứ học thuộc cái định lý ấy đi đã.
- Thuộc rồi. Này, trong một tam giác vuông, bình phương cạnh huyền... Nôn đọc một thôi, mắt long lanh, sung sướng.
- ừ xiều nhớ nhanh lắm! - Xứng khen.
Hai cậu trinh sát trong tổ cũng đang đăm chiêu suy nghĩ về bài toán Xứng ra.
- Nào, hai ông đã mò ra lối chưa? "Một đoàn con gái tắm bên sông, thảo luận cùng nhau việc lấy chồng, nếu, nếu hai lấy một thì ba không vợ, một lấy bốn thì bốn không chồng... - Xứng nhắc lại bài toán rồi gợi ý - Các cậu quên mất phương trình bậc nhất có hai ẩn số rồi à? Này, ta thử, thử cho con gái là X, con trai là Y... Đến tối các cậu phải làm cho ra đó!
Hai chiến sĩ trinh sát lại lầm bầm tính toán.
Với kinh nghiệm của người lính biên phòng lâu năm, trong mỗi chuyến vượt rừng hiểm trở, Xứng thường lái suy nghĩ của các chiến sĩ và một câu chuyện nào đó, khiến họ bót căng thẳng và mỏi mệt. Hồ Sa Nôn đã học xong lớp bảy. Ba ngày nay, Xứng đem một số kiến thức lớp tám ra dạy Nôn. Chàng trai dân tộc Khùa rất háo hức học. Xứng đưa ra định lý toán nào, cậu ta cũng nghiền ngẫm và chỉ mấy giờ sau đã học thuộc. Biện pháp của Xứng quả có hiệu nghiệm. Các chiến sĩ bớt căng thẳng hơn. Điều đó làm Xứng vui, nhưng dù sao, anh vẫn thấy sức lực của tô đang sút dần. Bước chân của họ xem ra mỗi lần rút lên khỏi lớp bùn đã thấy khó khăn. Cứ nghiệm bản thân anh thì rõ. Hai ngày đầu còn kham được, chứ sang ngày thứ ba, người anh đã mỏi rã rời, đôi chân như muốn rụng. Có lúc anh cảm thấy choáng váng tương như không còn đủ sức để rút bàn chân lên nữa. Lớp bùn dày như có bàn tay giữ chật lấy chân anh. Rồi ngày mai, ngày kia, mọi người còn chịu đựng nổi nữa không? Mà cái lòng chảo quái ác này không biết đến bao giờ mới vượt qua được. Trước kia, đã một lần, Xứng cùng đội trưởng Thịnh và đồn phó Huynh mạo hiểm tìm đường vào giữa lòng chảo Phu Con Kên. Ngày ấy, cách đây đã tám năm, Xứng còn làm một cậu tân binh. Lội bùn một ngày, Xứng đã phải bắt Thịnh cõng trên lưng. Những vết gai xước ở chân Xứng gặp chất nước màu vàng độc địa, nhanh chóng sưng lên, đau buốt như dao chích. Hai người phải quay trở lại. Vùng Phu Con Kên là nơi bí hiểm, khêu gợi tính tò mò của người trinh sát.
Nếu như đời lính biên phòng có nhiều thú vị thì cái thú vị nhất là sự khám phá thiên nhiên. Xứng thường nghĩ vậy. Bởi vì rừng hiểm trở đã hấp dẫn, cuốn hút anh. Mỗi đợt tuần tra, truy lùng, sau những ngày gian khổ lội suối băng lèn, được đặt chân lên một cao điểm hoang vu, một đỉnh lèn không tên tuổi, Xứng lại cảm thấy vui khấp khởi. Tháo ba lô xuống, người lạng đi vì hàng chục ngày trời quen mang nặng, Xứng đã nhảy đi tìm kiếm những điều mới lạ.
Sinh ra ở một làng ven biển Quảng Bình, từ khi còn ngồi trên lưng bà, Xứng chỉ quen nhìn biển xanh với những con sóng bổ cong tung bọt trắng. Khái niệm núi rừng đối với anh chỉ là những vệt dài màu sẫm chắn ngang chân trời phía tây xa xăm mỗi lần chạy lên cồn cát cao nhìn ông mặt trời lặn. Lớn lên, bàn tay anh quen vặn bánh lái những con thuyền đinh, căng buồm và thả neo, bàn chân anh quen đi những bước dài xoải ra, gót tỳ sâu vào lòng cát. Thế rồi, học xong lớp mười, vào bộ đội, anh lại lên biên phòng. Những ngày đầu sống với núi rừng, anh suýt phát khóc. Con đường đất đá gập ghềnh không chấp nhận đôi chân quen đi trên cát, chỉ chực quật anh ngã. Những tảng đá rêu trơn nhầy nhụa nghe có đôi bàn chân bước gượng đã hất anh xuống suối. Tất cả đôi với anh đều lạ lùng, doạ dẫm. Nhưng rồi, những đợt tuần tra dài ngày ào đi không hơi sức đâu để ngày một ngày hai làm quen với núi rừng, cho đến lúc, Xứng bỗng nhiên thấy mình yêu thích biên phòng. Sau cái lần bắt đội trưởng Thịnh và đồn phó Huynh cõng về trong chuyên đột nhập Phu Con Kên, Xứng chính thức được bổ sung vào tổ trinh sát. Mặc dù Xứng chưa quen đất quen nước lắm, nhưng đồn trưởng Tạ vẫn khẳng định Xứng sẽ trở thành tay trinh sát giỏi. Xứng có trí nhớ đáng ngạc nhiên về địa hình rừng núi và đến nay đã trở thành chiếc la bàn sống. Có lần, cầm bản đồ la bàn trong tay, đồn trưởng Tạ vẫn không tìm được hướng đến một cao điểm đã định, vì ông không xác định được chỗ đang đứng thuộc tọa độ nào trong bản đồ, Xứng đã dẫn phân đội đi theo hướng mà anh cho là đúng, quả nhiên, hôm sau, phân đội đến điểm cao ấy.
"Núi rừng thật gần gũi, nhưng cũng, cũng thật kì lạ" - Xứng thường mở to mắt, vò đầu nói với mọi người như vậy. Đứng trên một mỏm lèn chênh vênh, cúi xuống nhìn mây bay lưng chừng núi, một cảm giác lâng lâng trong anh, và anh thả lòng bay theo những đám mây ấy cho đến lúc ánh nắng bừng cháy đốt tan màu mây trắng, rừng núi lóng lánh sắc xanh. Qua một dòng suối không tên, thế nào Xứng cũng đứng dẫm chân một lúc với ý nghĩ lãng mạn: Những làn nước đang chảy quanh anh trôi về xuôi, đến một nơi nào đó, và biết đâu, một cô gái nào đó cũng rửa chân bên sông đứng nhìn làn nước này. Cô gái ấy, bây giờ là Y Lan. Xứng có thói quen mỗi đợt tuần tra, truy lùng, anh đều tìm một bông hoa rừng ép vào cuốn sổ nhỏ trong túi áo để làm kỷ niệm. Những bông hoa ấy đến nay đã được một gói to, nó không nằm trong chiếc rương đồ đạc của Xứng ở đồn nữa, nó đã nằm trong túi xách đựng giáo án của cô giáo Y Lan ở bản Sương.
Vào một ngày cách đây năm năm về trước, Xứng nhặt được một đứa trẻ độ mười hai, mười ba tuổi bên bò Y Leng, trong một chuyên đánh biệt kích. Đứa trẻ là một cô bé người Khùa, đang thoi thóp, Xứng cõng về đồn và đơn vị đã cứu sống cô bé. Bọn biệt kích giết chết bố mẹ cô bé, khi họ lên làm nương và quang cô bé xuống suối. Vài ngày sau, cụ Sa Đa lên đồn đem cô bé về làm cháu nuôi. Cô bé đó là Y Lan.
Từ đó, Xứng xem Y Lan như em và anh cũng được Y Lan giành cho tình cảm đặc biệt. Hàng tháng, Xứng giành hai ngày chủ nhật đến dạy học cho Y Lan và mỗi lần như vậy trở vế đồn, thế nào chiếc áo bạc màu Xứng mặc cũng tươm tất hơn: Một chiếc nút đứt đã được đính lại, một lỗ rách đã được vá bởi những mũi chỉ nắn nót. Mỗi lần Xứng đi xa, người ta thấy trên cổ tay cậu có buộc những vòng chỉ đỏ chúc phúc mà Xứng cứ hay ngắm nghía rồi cười thầm một mình. Cho đến ngày Y Lan được tuyển vào học trường sư phạm sơ cấp, Xứng bỗng thấy Y Lan lớn nhanh quá. Mói ngày nào cô còn gầy nhom như một cây lồ ô còi, vậy mà nay đã tươi tốt sum suê như một cây cam sành sắp ra lứa quả bói. Xứng nhận thấy điều đó và cậu sửng sốt khi bước bên Y Lan trong sắc ráng chiều cháy hừng hực trên dòng Y Leng, tưới lên má Y Lan màu hồng ửng mượt. "Ngày mai em xa anh Xứng rồi mà anh Xứng chẳng tặng cho em cái gì để nhớ nhau" Y Lan nói, dừng lại bứt một đọt sim đưa lên miệng cắn. "Tôi chỉ có chiếc ba lô và khẩu súng, biết tặng Y Lan gì bây giờ, hay tặng chiếc ba lô vậy?" Xứng trả lời sau một lúc bối rối. "Không có gì à? Hoa rừng nhiều lắm mà anh!" Y Lan ngoảnh đi, nối. Xứng chọn một bông hoa rừng đẹp nhất tặng Y Lan. Nhưng cô không nhận. Xứng tưởng bông hoa này Y Lan không thích, bèn chọn bông khác. Y Lan càng không nhận. Cuối cùng Y Lan bảo: "Ôi, anh Xứng, em chỉ muốn nhận bông hoa trong lòng anh thôi mà!" Xứng giật thót và sau đó đã mất ngủ mấy đêm liền để đi đến quyết định...
Phía sau, đồn trưởng Tạ thỉnh thoảng đưa tay sờ hai sợi râu trên má. Ông lo mọi người kiệt sức. Ba ngày qua, không nấu cơm được, phân đội chỉ ăn toàn lương khô. Mặc dù mỗi ngày đã dùng hết một hộp sữa, nhưng băng lầy thế này, đến sâm cũng chẳng thấm tháp gì. Cao điểm 2017 vẫn còn xa, rừng lầy vẫn còn rộng. Liệu rồi mọi người còn kham nổi cho đến khi lên tận cao điểm hay không? Cậu Quang cùng đi một tổ với đồn trưởng Tạ. Mới mấy ngày băng rừng mà Quang đã gầy tọp đi. Đồn trưởng Tạ e ngại khi thấy khuôn mặt bánh đúc của Quang dài ra, hai hàm răng va nhau như đánh mõ. Chiếc ba lô trên năm mươi cân làm người Quang cong xuống. Những giọt nước lăn vội trên mặt cậu ta khó phân biệt được mồ hôi hay nước mưa. Cứ mỗi lần nhìn Quang, ông lại chợt nhớ đến đứa con gái và trong ông thấy thương người chiến sĩ trẻ này. Hai mươi năm về trước, từ dưới hầm bí mật chui lên, ông im lặng đến hôn lên má thằng con trai đầu lòng chưa đầy sáu tháng rồi rời căn nhà lụp xụp ra đi, giọt nước mắt của vợ cứ thấm hoài trên bả vai. Tiếng sóng biển Nha Trang gào thét lùi lại phía sau. Ông lên chiến khu nhận công tác mới. Hai năm sau quay trở lại, người vợ đã thành một nữ du kích nổi tiếng ôm choàng lấy ông, nghẹn ngào báo tin đứa con trai đã bị giặc Pháp càn giết chết. Mấy năm sau, ông đi tập kết mang theo đứa con gái thứ lên ba, còn để lại cho vợ đứa con trai chưa đầy một tuổi. Gia đình bốn người, từ đó, sống ở hai phương trời, và lòng ông luôn bay đi giữa hai phương trời ấy...
Đội trưởng Cao Xuân Thịnh đi ở tổ giữa. Dáng người cao lớn của anh vẫn cứng cáp, dường như mọi gian khổ đều phải khuất phục trước dáng người ấy. Hơn mười năm sống ở biên phòng, chưa bao giờ anh bị sốt rét quật ngã. Lớn lên ở một vùng quê đất thịt bên dòng sông Gianh, bàn chân của Thịnh từ nhỏ đã bè ra, với những ngón tròn, cong xuống, thế cứng như những đốt tre mắt kiến. Bàn chân ấy từ lúc mới lên biên phòng bấm vào tảng đá rêu không trượt, leo ngược vách đá không biết run, Thịnh vào loại những người "ăn chịu" đối với biên phòng. Nước mặn sông Gianh và những bữa cơm gạo mành "bọc thép" ăn với cá diếc kho khô, mặn quăn lưỡi đã ngấm cái khỏe khoắn vào xương thịt Thịnh. Anh vẫn thường xoay tay tuyên bố sẽ sống với biên phòng ít nhất hai chục năm nữa. Nhìn cái vẻ bên ngoài thô giáp của anh, khó có thể đoán được anh là người có cuộc sổng nội tâm phong phú. Thịnh rất yêu thơ và thích làm thơ. Quyển sổ tay bìa đỏ luôn luôn nằm ở túi áo ngực, chi chít những chữ. Nhưng dòng thơ viết vội giữa một đêm trăng rừng mở ảo sau một trận đánh, trên một điểm cao lộng gió bốn bề, cứ nối nhau dài ra theo cuộc chiến đấu. Chưa bao giờ anh có thời gian rảnh rang để chữa lại. Chỉ thỉnh thoảng anh ngồi chép lại một bài nào đó, gửi cho vợ, bên cạnh những câu dặn dò về đồng áng làm ăn: "Loại nông nghiệp tám là khó tính lắm đó, mà vùng Quai Mõ thì đất lại xấu, em phải cùng bà con lo cái anh phân chuồng cho đủ...". Làm thơ vậy chứ Thịnh cấm cho ai xem. Một lần, bắt quả tang Xứng nhìn trộm khi anh đang chép thơ, Thịnh đã nổi xung toan đánh nhau.
Sau khi căng tăng, mắc võng, mọi người lôi lương khô ra ăn thì đồn trưởng Tạ tuyên bố phải nấu cơm.
- Không có chất gạo, các cậu không nhắc nổi chân nữa đâu!
Mọi người tưởng đồn trưởng nói đùa. Ai lại nấu cơm trên mặt nước? Biết nhóm lửa chỗ nào mà nấu với nướng chứ? Trời mưa, kiếm củi khô đâu ra? Nhưng khi thấy đồn trưởng Tạ mỏ ba lô cậu Quang, dốc hết gạo vào mấy chiếc nồi, mọi người mới tin ông nói thật. Cậu anh nuôi lôi trong túi cóc ra một nắm dây cao su. Đồn trưởng Tạ chặt mấy nhánh cây xỏ qua quai xoong rồi dùng dây võng treo toòng teng mấy chiếc nồi lên một cành cây đâm ngang. Thấy đã vừa ý, ông bảo cậu anh nuôi lấy nước vo gạo. Thịnh, Xứng cùng mấy cậu cầm dao găm sục củi. Đồn trưởng Tạ chặt những cành cây tươi cá nạng cắm xuống bùn, rồi dùng những cành khác gác chéo lên làm thành những giàn bếp. Củi được chẻ nhỏ, tuy ướt nhưng được sự hỗ trợ của mồi lửa cao su chốc lát đã cháy. Lửa nổ lép bép, cháy rụt rè, xông khói mù mịt. Mọi con mắt nhìn chăm chăm vào những vệt lửa uể oải liếm trên những que củi đẫm nước. Một hồi lâu, sau mấy lần toan tắt, những bếp lửa đã cháy to hơn, ngọn lửa quấn quít dưới đáy những chiếc nồi. Cả phân đội quây quanh bếp lửa kì lạ, vẻ mặt sung sướng. Đồn trưởng Tạ nhìn ngọn lửa, hài lòng và vô tình đưa tay xoa hai sợi râu trên má. Riêng Thịnh, bếp lửa cho anh một ý thơ hay. Anh lặng lẽ rút cuốn sổ tay trên túi ngực, lui ra nấp sau một gốc cây mò mẫm ghi chép. Còn Xứng, cậu ta vừa đưa tay vò mớ tóc ướt sũng nước mưa, vừa giảng giải cho Hồ Sa Nôn về việc con người phát minh ra ngọn lửa như thế nào và đã dùng để cải tạo tự nhiên ra sao.
- Em thích nhất cái món thịt khỉ nướng chấm muối ớt! - Hồ Sa Nôn kết luận sau khi nghe Xứng nói xong.
Củi được bổ sung thêm, lưỡi, lửa reo cười, múa nhảy. Khuôn mặt các chiến sĩ sáng bừng, rạng rỡ. Tiếng cơm sôi lóc bóc trong nồi như cũng vui lây cái vui của con người. Mùi gạo thơm bốc lên ngây ngất.
Sau mấy ngày ăn lương khô liên tục, bữa cơm tôi nay làm mọi người cảm thấy khỏe hẳn ra.
Khi mọi người lên võng ngủ với bộ quần áo hong khô, đồn trưởng Tạ còn đứng bên bếp lửa với Thịnh và đồn phó Huynh. Dáng người cao to của Thịnh khom xuống mỗi khi đồn trưởng nói. Thấy trước tình hình sức khỏe của phân đội, đồn trưởng cử hai người đi trước dò đường để phân đội nghỉ một ngày.
Đồn trưởng Tạ giơ bản đồ soi bên ngọn lửa xem lại hướng đi. Theo tốc độ hành quân mấy ngày qua, đơn vị đã đi đến trung tâm Phau Con Kên.Rẽ ngoặt hướng Tây Bắc, đường bình độ có dày hơn, chứng tỏ đất hướng này cao hơn.Ngày mai, Thịnh và Huynh đi theo hướng đó.
Bóng đêm dày đặc rơi xuống tầng lá, túa ra từ các hốc cây, chồm tới mấy bếp lửa như muốn nuốt chửng những đốm sáng mỏng manh trước mặt đồn trưởng Tạ. Những ngọn lửa lại lao lên gạt bóng tối ra xa.
Đội trưởng Thịnh lên võng cuối cùng. Anh còn nán lại giở quyển sổ nhỏ ra xem, say sưa đọc thêm những câu thơ vừa làm ban nãy.