Bản Sương nằm cheo leo tận đầu nguồn của con suối Y Leng. Năm sáu chục nóc nhà sàn quây quần bên một bãi rừng thoai thoải. Cây lim, cây táu cao to hai ba người ôm lá đan kín trên đầu tưới bóng râm xuống những mái nhà cọ. Bản Sương có từ bao giờ không ai nhó. Ngay cụ Hồ Sa Đa trên một trăm tuổi cũng chỉ biết sau những chuyên phiêu bạt bỏ nhà bỏ nương ngược nguồn con suối Y Leng tìm nơi yên ổn, không còn nghe tiếng súng thằng Pháp nữa, dân bản thưa dần đi. Mà nào có được yên ổn, thằng Pháp bám theo bản Sương như con hổ bám theo mồi. Rồi con ma dịch tả, con ma sốt rét bóp chết người già lẫn những đứa trẻ vừa mới đẻ ra. Người Khùa, Mày bản Sương chưa biết vải là gì, trẻ con ở truồng, người già đóng khô bằng vỏ cây. Hạt bắp hạt lúa trên rẫy chỉ ăn đủ vài tháng, còn lại thì ăn củ nâu, đọt nhúc. Cây nhúc giống như cây dừa to hai người ôm, đẵn xuống, chặt lấy khúc ngọn, bửa la từng miếng, phơi khô, giã nhỏ, thành thứ bột ăn thay gạo. Củ nâu băm nhỏ, ngâm một tuần trong nước suối cho đỡ chát, đem phơi, nấu ăn như khoai khô. Bỗng một hôm, Hồ Phừn và các công an Pú Hồ đến. Hồ Phừn cho cụ Hồ Sa Đa một bát nước đường, nhưng cụ không dám uống. Cả đời cụ đã lần nào uống nước đường đâu. Cụ hỏi Phừn: "Nước chi mà nghe ngọt, trong đó có con ma không?" Công an khuyên bản trở lại bãi bằng định cư. Công an giúp dân khai rẫy khai nương, bày cho dân bản biết chữ, đuổi con ma bệnh tật đi xa. Dân bản lại đông ra như lúa hạn trên nương gặp mùa giông.
Nhưng, thằng phỉ, thằng biệt kích lại đến, bọn thầy mo thầy cúng hùa theo. Chúng muốn cây bắp cây lúa trên nương không cho người cái hạt, chúng muốn dân bản chết dần chết mòn như những hạt muồng muồng rụng xuống dòng Y Leng mùa lũ. Bọn thầy mo xúi dân bản ngược suối đi theo phỉ. Nhưng dân bản không còn dại nữa. Lũ con trai con gái đã cùng công an biên phòng đánh trả lại lũ phỉ. Cái tay cụ Hồ Sa Đa cũng đã có lần giương ná bắn vào một thằng thổ phỉ. Mũi tên tẩm độc cất trong ống luồng gác trên sàn bếp dùng để bắn con hổ, con gấu cụ đã dùng tới. Dân bản vẫn còn nhớ lần ấy cụ Sa Đa dùng cây ná bắn voi bắn mũi tên độc xuyên qua bụng thằng phỉ, cắm ngập vào thân cây dâu da mà thẳng phỉ dựa lưng. Mũi tên cứ găm người thằng phỉ vào thân cây như thế, cho đến lúc phải dùng rựa chặt cái tên ấy đi, thằng phỉ mới bô xuống.
Cụ Hồ Sa Đa thức dậy, châm ngọn cà boong cháy sáng căn nhà. Cụ đến ngồi bên bếp lửa, trầm ngâm, đôi mắt nhìn chằm chằm vào một cục than sáng rực. Từ ngày bọn dân quân, bọn công an đi đánh biệt kích ở Phu Ác theo đường tắt, cụ cứ thao thức, cái bụng để theo bước chân chúng nó. Cụ lo. Như bao nhiêu lần tiễn những đứa con của dân bản lên đường tuần tra truy lùng, cụ mong cầu cho chúng đánh thắng thằng biệt kích, thằng thổ phỉ mà đứa nào cũng lành lặn mạnh khỏe. Mong cầu vậy, chứ trong thâm tâm, cụ cũng biết bắn con lợn lòi nhiều lần cũng bị nó cắn, bắn con trâu rừng nhiều lần cũng bị nó húc.
Cụ già cầm một hòn than đến vạch lên xà nhà một vạch nữa. Sáu vạch than kề nhau. Thế là công an và dân quân đã đi được sáu ngày.
- Bó lũ bây - cụ gọi đàn con cháu đang ngủ trên sàn nhà - thằng Tạ, thằng Nôn với bọn công an đã sắp đến chân núi Phu Ác rồi!
Mọi người trong nhà bật dậy nhìn cụ. Y Lan mặt đỏ bừng, tỉnh như sáo, dã chạy đến nép bên cụ Sa Đa. Mất Y Lan bắt lửa sáng long lanh.
- Cả anh Xứng nữa Pú!
- Cả thằng Xứng nữa! - Cụ Sa Đa âu yếm nhìn Y Lan. Mấy hôm nay cụ biết Y Lan nhớ thằng Xứng lắm, cái miệng nó hay nhắc đến thằng Xứng, chứng tỏ cái đầu nó có thằng Xứng trong ấy. Cụ bỗng thấy vui vui. Từ hồi có công an về bản, người Kinh, người Khùa đã thành gần gũi, có thể lấy nhau nên vợ nên chồng, không còn ghét nhau như ngày còn thằng Pháp nữa.
- Cháu Y Lan! Ta không bắt thằng Xứng ở rể ba năm, cưới nhau ba lần như tục của người Khùa đâu! Thằng Xứng làm công an, cháu làm cán bộ, công an Pú Hồ, cán bộ Pú Hồ không được đi theo tục cũ đâu.
Cụ Sa Đa nói trúng ý nghĩ của Y Lan quá. Y Lan lấy tay bưng mặt giấu một nụ cười sung sướng.
- Cháu cũng muốn vậy Pú à !
Quấn chiếc khăn bằng vải lụa trên đầu, Pú Sa Đa đứng dậy rút cây mác dắt ở tấm phên bỏ vào chói sau lưng, bước ra ngoài. Chiếc khăn lụa của Pú Hồ gửi tặng cụ trong lần cụ tròn 125 tuổi, mỗi lần quấn lên mái đầu bạc, cụ lại cảm thấy ấm áp lạ. Những bước chân của cụ vững chãi chắc chắn làm sàn nhà kêu cọt kẹt. Cụ xuống cầu thang đi ra suối. Ngồi xuống bên một hòn đá đã mòn già nửa, cụ mài lại cây mác. Cây mác sáng dần lên. Cụ rút một sợi dây đi về phía cuối bản.
- Pú Sa Da đi đâu mà sớm như con chim đại bàng đất vậy? Một người đàn bà đứng ở hiên ngôi nhà sàn cuối bản cười hỏi cụ:
- Bớ cháu Y Đăm. Tao lên cái rẫy xa nhất thăm lúa đây.
Cụ Sa Đa đi thăm lúa ở cái rẫy xa nhất, nhân tiện ghé qua xem mấy cái bẫy đặt ở khu rừng đó có trúng con thú nào không?
Mưa bụi đậu nhẹ trên những ngọn lá rừng, đọng thành giọt to, mờ đục. Rừng buổi sáng yên ắng, thỉnh thoảng bầy chim cà liếng ở đâu đó hót vang một chặp rồi lại im bặt. Cụ Sa Đa cầm cây mác trong tay phạt đứt những dây leo trước mặt, cắt đường lên rẫy. Cụ có thói quen không thích đi đường mòn mà cắt đường theo ý muốn. Cây mác sắc ngọt bay loang loáng, nhẹ như chém vào khoảng không. Hơn một trăm năm rồi, cụ đã dùng nhiều cây mác, những cây mác đã cùn đi theo đôi bàn tay ngày càng nhiều vết chai, nhưng chưa cây mác nào sắc như cây mác đang dùng. Nó được rèn bằng mảnh bom tạ máy bay ném phá bản hồi năm ngoái.
Đang đi, cụ bỗng đứng phắt lại, đưa mắt nhìn quanh. Mùi thuốc lá thơm vương vất đâu đây. Cụ bước đến bên một hòn đá và thấy một mẩu thuốc lá. Có những vết giày in rõ trên mặt đất ẩm uớt. Cụ cầm mẩu thuốc lên nhìn rồi đến bên những dấu giày, ngồi xuống quan sát. "Không, thằng công an Hồ Phừn không đến đây. Thứ thuốc lá này không phải của người mình hút, dấu giày này không phải của người mình? Cụ thầm nghĩ và chợt nhố đến những lần trước kia, mỗi khi có bọn biệt kích đến Phu Ác, đều có một toán về đây phá rôi."Bọn biệt kích về bản mà ta chưa biết!" Cụ đứng dậy cầm cây mác trong tay, hăm hở lần theo những dấu giày lạ. Dấu giày khi rõ, khi mờ trên mặt đất, có lúc không thấy nữa, khiến cụ phải dò trở lại rà tìm cẩn thận rồi hối hả đi tiếp. Những dấu giày chứa đầy sự bí mật cuốn hút cụ, đưa cụ vào rừng sâu từ lúc nào không hay biết.
Cuối cùng, cụ Sa Đa đến trước một cửa hang, thoạt trông, cụ đứng lặng, không tin vào mắt mình nữa. Ký ức của một trăm năm về trước dội đến. Cái lần cụ đưa toán nghĩa quân Phan Đình Phùng bị lạc vào Phu Ác, cụ đã một mình tìm đường về và chính cái cửa hang này đã cứu sống cụ đây. Lần ấy, ra khỏi cửa hang, cụ ngất đi vì đói mệt. Chính hòn đá to trước mặt cụ đây, cụ đã nằm trên đó cho đến khi tỉnh lại. Cây dâu da mà cụ đã hái ăn cho đỡ đói đã đổ, chỉ còn trơ lại cái gốc mục ẩm. Xung quanh, cây cối lên cao hơn, rậm rạp hơn. Cửa hang không thay đổi gì, vẫn những nhũ đá rêu phong già nua và ma quái. Nhưng tại sao mấy lần cất công đi tìm cửa hang này mà cụ chang tìm ra? Hay đang mơ đây? Cầm cây mác chích vào tay, thấy đau nhói, cụ khẳng định mình đang thức thật.
Cụ sững sờ đi lại trước cửa hang, sờ mó những hòn đá rêu phủ kín, như đang sờ vào những hình ảnh quá khứ. Rồi cụ ngồi xuống, nhìn vào trong hang. Những mau đá lờ mờ kia tay cụ đã lần mò để vượt qua bằng chút sinh lực cuối cùng cách đây một trăm năm. Sâu hút bên trong, một màu đen tôi phủ lấy mọi vật chẳng cho mắt cụ nhìn thêm được gì nữa cả. Cụ muốn đi vào trong ấy. Cụ toan bước vào thì, trên mặt đá, dấu giày lạ vừa giẫm trượt hết rêu làm một ý nghĩ thoáng qua: "Lỡ bọn biệt kích nó giết ta, ai báo cho công an Hồ Phừn biết?" Cụ vung cây mác quát lớn:
- Bớ con hổ, con gấu, đi đâu rồi mà tao tìm không ra?
Nói rồi, cụ lững thững bỏ đi. Nhưng khi nhìn lại thấy miệng hang đã khuất, cụ khom người cất cẳng chạy. Dây rừng đứt phừn phựt, cành lá quất ràn rạt vào mặt, cụ cũng chẳng biết nữa.
*
Ngồi sau một hòn đá trong hang, Hin nín thở căng mắt theo dõi cái bóng di động trước cửa hang. Khẩu súng ngắn đã lên đạn trong tay hắn run run, rê theo sát mục tiêu. Hai tên biệt kích nằm bên cạnh hắn cũng đang trải qua những phút căng thẳng, hoảng sợ. Bóng người luớt qua, lướt lại, khom xuống, đứng lên trước cửa hang chúng hồn xiêu phách lạc. Đứa nào cũng đoán bộ đội, công an đang đi tìm chúng. Khi nhận ra chỉ có một người, Hin gạt súng hai tên đồng bọn xuống, ra hiệu đừng bắn. Bắn thì sẽ lộ mất. Hin rút con dao găm cầm tay, nhẹ như một con thằn lằn bò tới miệng hang. Nhưng con dao trong tay hắn bỗng rời ra, mắt hắn mờ đi, chân tay hắn run lẩy bẩy khi nhận ra người trước cửa hang là cụ Sa Đa! Trời, ông già vẫn sống! Hắn lẩm bẩm. Từ khi Hin biết nhìn và biết nhớ, cụ Sa Đa đã đầu tóc bạc phơ. Mỗi lần nhìn cụ, Hin tưởng như nhìn lên đỉnh Phu Ác mây trắng, nghe cụ nói, Hin như nghe tiếng sấm mùa mưa. Cụ Sa Đa như cây lim rắn chắc của rừng già, như nóc nhà cao nhất của bản. Người Khùa đều kính nể cụ. Khi Hin từ trong bụng mê chui ra, chính cụ Sa Đa đã cầm Hin trong tay và cắt rốn cho Hin. Hin còn nhớ lũ con gái, con trai đêm khuya ngồi quây quanh bếp lửa nghe cụ kể chuyện cổ tích về núi Phu Ác, về đèo Mụ Giạ, Khi kể về những chuyện phiêu bạt của bản Sương, hai tròng mắt cụ rưng rưng, ướt đẫm như hai vực thẳm tối tăm những kỷ niệm làm lũ con trai con gái cũng khóc theo.
Hin thở hổn hển bò trở lại. Chưa biết xử trí thế nào, hắn bỗng nghe cụ Sa Đa quát con hổ, con gấu ngoài hang. Hắn thở phào khi thấy cụ trở về. Chắc cụ đang đi săn con thú.
Hai tên biệt kích chống súng đứng dậy, hỏi Hin:
- Ai ngoài đó vậy?
- Một lão già, hắn đi săn con thú rừng.
- Chắc lão đánh hơi thấy bọn ta rồi! Một tên phỏng đoán, vẻ mặt sợ hãi nhìn Hin. Hin quắc mắt nhìn ra cửa hang. Hắn cũng nghĩ vậy. Nếu cụ già biết, tụi hắn sống chẳng yên nữa. Cái ý định mang trong bụng từ lâu hắn không còn thực hiện được nữa chăng? Nhưng hắn lắc đầu. Hin quyết định chờ đến tôi, nếu không có động tĩnh gi, hắn sẽ vào bản.
Tổ biệt kích do Hin chỉ huy về đây đã mấy hôm nay. Hin cử hai tên trở lại 2017 lấy thêm lương thực, chỉ còn Hin và hai tên nữa ở lại.
Đặt chân đến mảnh đất chôn rau cắt rốn, Hin không khỏi xúc động. Hắn trèo lên một ngọn núi cao, ngọn núi mà hồi còn thanh niên, hắn vẫn thường mò lên đặt bẫy đơm con nai, con lợn, nhìn lại núi rừng quen thuộc. Đây hẻm đồi trước kia hắn vẫn thường cùng mê lên trỉa bắp, làm nương, kia là dòng Y Leng ngoằn ngoèo như khúc ruột của rừng. Hắn đã từng đứng trên hòn đá lớn kia câu cá, cùng lũ trẻ mò cha khó suốt ngày bên suối Y Leng. Những con cha khó màu nâu sẫm giơ càng ra đe doạ Hin, Hin chộp lấy nó, giắt vào lưng quần. Con cha khó cựa quậy, dùng càng kẹp vào bụng Hin đau nhói. Đến tối, Hin chạy về nhà, bỏ những con cha khó vào bếp lửa than đỏ hồng. Mùi thơm bốc lên làm con mèo trên xà nhà nhảy xuống chạy đến cọ đầu vào đùi Hin đòi ăn. Con cha khó cháy xém, sôi xèo xèo trên những cục than rực đỏ, Hin thò tay cầm giật ra. Phủi qua loa, Hin ngửa cô ném cha khó vào miệng, nhai rau ráu làm con mèo tức tôi giơ vuốt cào vào tay Hin, kêu gừ gừ. Kia là rừng lồ ô, rừng nứa, Hin đã từng chui rúc bẻ măng vào mùa mưa. Những búp măng tròn căng, nhú lên khỏi mặt đất chừng một gang tay, Hin cầm bẻ ngang, bóc vỏ, lộ ra màu trắng nuột nà. Măng ủ chua, nấu với cá chuối, ăn no bụng vẫn thấy thòm thèm. Hin lặng người khi nhìn thấy những ngôi nhà sàn bản Sương. Những ngôi nhà sàn sao bây giờ xa lạ với Hin đến thế. Có bóng người đi lại trên hiên nhà, những người ấy bây giờ đã xem Hin là kẻ thù rồi. Nghĩ đến Y Đăm, tim Hin thắt lại, đau nhói như bị trúng mũi tên đò ho. Hin rờn rợn nhớ đến cái đêm mưa gió năm xưa, hắn bắt cóc Y Đăm vào rừng. Lúc ấy, Y Đăm hoảng sợ ôm chặt lấy cổ hắn như một đứa trẻ. Y Đăm giờ còn sống không, và trong những ngôi nhà kia, Y Đăm đang ở ngôi nào? Rồi hắn gục xuống khi hình ảnh lưỡi dao mác trong tay hắn vung lên, máu phọt ra đầy mặt Hồ Phừn.
Điều làm Hin hoảng sợ nhất là những thay đổi của bản Sương. Hắn ngỡ ngàng khi bắt gặp những nương lúa xanh rờn khắp các ngọn đồi. Hắn ngạc nhiên khi thấy những người đàn bà mặc váy hoa, áo trắng. Còn lũ trẻ sáng nào cũng chạy đến ngôi nhà giữa bản, cổ có quàng một chiếc khăn đỏ. "Sao chúng nó lại quàng khăn đỏ nhỉ?" Hắn băn khoăn và không thể hiểu nổi những gì đã xảy ra trong mấy chục năm qua ở bản Sương này. Hắn đã như con chồn lạc lối rồi.
Mấy đêm nay, Hin đều về ngồi rình bên bản. Hắn lạ lùng khi nghe tiếng trẻ con đọc bài bằng tiếng Kinh. Hắn muốn chạy vào xem sao, nhưng nghĩ chỉ khi ăn phải lá ngón mới làm như thế. Có lúc Hin nghe tiếng chân người đi qua và tiếng trò chuyện rì rầm, hắn rụt cổ lại trong bụi cây, tay nắm báng súng. Báng súng thép lạnh như cái bụng của hắn. Ôi! Làm sao có thể bước ra nói chuyện với người Khùa được nữa! Hin mong gặp được Y Đăm. Nhưng hắn chẳng biết được Y Đăm ở đâu. Một nỗi khát vọng mãnh liệt trong Hin: gặp được Y Đăm, hắn sẽ bắt chị đi theo.
Có lúc Hin lại cảm thấy sợ khi nghĩ rằng Y Đăm đã lấy chồng khác. Ít ra thì Y Đăm cũng thù Hin vì Hin đã giết chết Hồ Phừn. Y Đăm không phải là vợ Hin nữa. Y Đăm sẽ báo cho công an đến bắt Hin, hoặc chồng Y Đăm sẽ giết chết Hin. Ý nghĩ đó làm Hin đau đớn.
Hồi sáng sớm, hắn đang ngồi rình bên bụi cây cuối bản thì cụ Sa Đa đi qua, hắn nghe cụ Sa Đa gọi người đàn bà ở ngôi nhà sàn cuối bản là Y Đăm. Bụng hắn giật thót lên. Đúng là Y Đăm ở ngôi nhà ấy rồi. Hắn đã biết được chỗ Y Đăm, nhất định hắn sẽ gặp Y Đăm, bắt chị đi theo.
Giờ đây, sau cơn hốt hoảng vì bị cụ Sa Đa truy theo dấu vết, Hin nằm ngửa trên tảng đá trong hang, nhai thịt bò khô, uổng rượu uýt-ky và lim dim mắt mơ màng. Những hình ảnh quá khứ, những nơm nớp lo âu, những dự định táo bạo nhảy múa trong đầu hắn. Miệng hắn nhai tóp tép, uống ừng ực, nhưng hắn chẳng thấy ngon. Hắn co chân bật dậy, châm lửa hút thuốc, rồi lại nằm xuống, ném những miếng thịt bò khô vào miệng một cách cáu kỉnh. Thịt bò khô, cái món hắn ưa thích nhất giờ đây sao dai dẳng, khô khan như những miếng vỏ cây. Hắn khạc nhổ và bất chợt đưa tay nắm báng súng. Hắn mong cầu trời đất che mắt cụ Sa Đa, không cho cụ trông thấy dấu vết của hắn để đêm nay, hắn đến được nhà Y Đăm.
Cụ Sa Đa chạy về đến bản, dừng lại trước cửa nhà Y Đăm, thở gấp. Cụ hoa cây mác trong tay, nỗi khích động làm cụ rậm rật như có một đàn sơn dương đang nhảy trong bụng. Cụ định gọi Y Đăm, báo cho Y Đăm biết những dấu vết vừa bắt được. Nhưng cụ trấn tĩnh lại, nhố rằng Y Đăm và bà con đã lên rẫy làm cỏ lúa hết cả rồi.
- Còn cháu Y Lan! - Cụ lẩm bẩm rồi bước nhanh tới ngôi nhà sàn giữa bản, nơi đang vang tiếng trẻ đọc bài.
Y Lan đang đứng giảng bài cho các cháu trong lớp. Thấy cụ Sa Đa đến, cô chạy ra hiên.
- Cháu Y Lan! - Cụ Sa Đa gọi trong hơi thở.
- Thưa pú, có việc gì ...
- Bố cháu Y Lan, lại đây ta bảo!
Y Lan bước xuống cầu thang, đến bên cụ Sa Đa. Cô gái hai mươi tuổi, nước da trắng hồng, tóc dài mượt đứng trước cụ già một trăm ba mươi tuổi, tóc bạc trắng, da nhăn nheo, tựa như sự đối nhau của hai thế kỷ. Cụ Sa Đa hoa cây mác sáng loáng làm Y Lan sợ hãi. Râu cằm cụ rung rung. Cụ hạ thấp giọng, nói nhỏ với Y Lan:
- Chân cháu như chân con nai, mắt cháu như ngôi sao trên trời. Ngôi sao phải nhìn thẳng đường, chân con nai hãy chạy nhanh đến công an Hồ Phừn gọi nó đến đây cho ta.
Y Lan đăm đăm nhìn cụ Sa Đa. Cô đoán được nỗi khẩn cấp trong dáng điệu và giọng nói của cụ.
- Cháu mang theo cây súng. Đường đi có con hổ đó cháu. Bảo thằng Phừn phải đến gấp trong ngày nay cho ta!