Ngựa gọi điện thoại
Đầu kia trả tiền
Hí hí hí hí
ÔI, QUỶ THA MA BẮT!
Ai đó giải thích giùm xem sao ta cứ rơi vào thùng rác hoài vậy hả?
Nhưng phải thừa nhận là cái thùng rác này đã cứu mạng ta. Tiệm Trại Lính Điên Nhà Macro nổ thành một chuỗi liên hoàn chấn động cả sa mạc, làm cái nắp thùng rác bọn ta nấp bên trong rung lên bần bật. Mồ hôi đầm đìa, cả người run rẩy, hít cũng chẳng dám hít vào, cặp thần rừng và ta co ro giữa mấy túi rác, lắng nghe tiếng gạch đá rơi lộp bộp như mưa ngoài kia. Một cơn mưa rào của gỗ, thạch cao, thủy tinh và dụng cụ thể thao.
Chờ đợi chắc cũng phải mấy năm, ta rồi cũng đánh bạo mở miệng, tính nói Cho ta ra không là ta ói đó, nhưng liền bị Grover bịt mồm lại. Trong bóng tối ta gần như chẳng thấy gì, song cậu ta đang lắc đầu nguầy nguậy, mắt ánh lên cảnh giác. Huấn luyện viên Hedge cũng căng thẳng ra mặt. Mũi ông giật giật như ngửi được mùi gì còn kinh hơn rác thải.
Thế rồi ta nghe thấy tiếng móng guốc gõ đều lộc cộc, lộc cộc xuống mặt đường, dần dần tiến tới chỗ cả bọn ẩn nấp.
Một giọng nói âm trầm vang lên, “Chậc, khéo không cơ chứ.”
Một con gì đó sục mõm quanh nắp thùng rác, có lẽ để đánh hơi tìm kẻ sống sót. Tìm bọn ta.
Ta cố không bật khóc hay làm ướt quần. Thành công được một trong hai. Để các ngươi tự chọn đấy.
Cái nắp thùng rác vẫn đóng chặt. Có lẽ rác thải và lửa cháy đã che giấu mùi của bọn ta.
“Ơi, C Đại à?” Vẫn cái giọng trầm trầm đó nói. “Ừ. Ta đây.”
Không nghe thấy tiếng trả lời, có lẽ kẻ mới đến đang dùng điện thoại.
“Không, cái nơi đó banh chành rồi. Ta không biết. Macro hẳn đã…” Hắn khựng lại như thể đầu dây bên kia đang xổ ra một tràng mắng chửi.
“Ta biết,” tên đó tiếp. “Có thể là báo động giả, nhưng… A, như hạch. Cảnh sát con người đến rồi.”
Hắn vừa dứt lời, ta liền nghe thấy tiếng còi hụ văng vẳng xa xa.
“Ta có thể kiểm tra quanh khu vực,” tên đó đề nghị. “Hoặc lên khu phế tích trên đồi xem thế nào.”
Hedge và Grover lo lắng nhìn nhau. Khu phế tích nhất định là thánh địa của bọn ta, nơi Mellie, bé Hedge và Meg đang trú ngụ.
“Ta biết cậu tin là đã xử lý xong nơi đó,” tên đó tiếp. “Nhưng nghe này, chỗ đó vẫn nguy hiểm lắm. Cho cậu biết…” Lần này ta có thể nghe thấy tiếng nói léo nhéo giận dữ truyền tới từ đầu bên kia.
“Được rồi C,” tên đó nói. “Ừ. Lạy Jupiter, bình tĩnh đi! Ta sẽ… Được rồi. Được rồi. Ta về liền đây.”
Tiếng thở dài ngán ngẩm cho biết cuộc gọi đã kết thúc.
“Thằng nhóc này làm mình đau dạ dày mất,” tên đó làu bàu một mình.
Thứ gì đó đập mạnh vào bên hông thùng rác, ngay sát mặt ta. Rồi tiếng vó ngựa lộc cộc xa dần.
Thêm vài phút nữa ta mới thấy an toàn để nhìn sang hai tay thần rừng. Cả ba lẳng lặng nhất trí phải ra khỏi thùng rác ngay trước khi chết vì ngạt, vì nóng hay vì cái mùi dưới quần ta.
Con hẻm bên ngoài ngổn ngang mảnh nhựa và kim loại biến dạng âm ỉ khói. Căn nhà kho chỉ còn mấy bức tường trơ trụi đen sì, lửa vẫn bập bùng bên trong, từng cột khói bay lên hòa lẫn vào bầu trời đêm vốn đã dày đặc tro bụi.
“Đó… đó là ai vậy?” Grover hỏi. “Hắn có mùi như người đang cưỡi ngựa, nhưng mà…”
Cây côn nhị khúc rung lạch cạch trong tay huấn luyện viên Hedge. “Nhân mã chăng?”
“Không đâu.” Ta đặt tay lên chỗ lõm trên thùng rác, hình dạng y hệt một cái móng ngựa. “Nó là một con ngựa. Một con ngựa biết nói.”
Hai thần rừng nhìn ta chòng chọc.
“Ngựa nào chẳng biết nói,” Grover bảo. “Chỉ là chúng nói tiếng Ngựa thôi.”
“Chờ đã.” Hedge cau mày nhìn ta. “Không lẽ cậu nghe hiểu được con ngựa hồi nãy?”
“Ừ,” ta đáp. “Con ngựa đó nói tiếng người.”
Cả hai chờ lời giải thích, nhưng ta chẳng nói nổi thêm tiếng nào. Giờ đã thoát khỏi nguy hiểm, adrenaline trong người đã tan, ta phát giác ra mình đang bị một nỗi tuyệt vọng lạnh lẽo nặng nề bóp chặt. Nếu ta còn nuôi chút hy vọng sau cùng rằng mình đã lầm về danh tính kẻ thù thì chút hy vọng đó cũng sụp đổ luôn rồi.
Gaius Julius Caesar Augustus Germanicus… thật ra cái tên đó có thể dùng cho không ít nhân vật La Mã nổi tiếng. Nhưng chủ nhân của Naevius Sutorius Macro? C Đại? Neos Helios?Gã hoàng đế La Mã duy nhất sở hữu một con ngựa biết nói? Chỉ có thể là một kẻ thôi. Một kẻ vô cùng khủng khiếp.
Ánh đèn xe cứu thương hắt lên tàn cây cọ gần đó. Ta bèn nói.
“Chúng ta phải ra khỏi đây thôi.”
Gleeson đưa mắt nhìn tàn tích của cái tiệm quân dụng. “Ừ. Đi vòng ra mặt trước đi, xem xem xe của ta có còn nguyên vẹn không. Ta chỉ ước có thể lấy được một ít dụng cụ cắm trại.”
“Chúng ta lấy được một thứ còn tệ hơn nhiều.” Ta run rẩy hít vào. “Danh tính của tên hoàng đế thứ ba.”
Vụ nổ không động đến chiếc Ford Pinto 1979 vàng khè của tay huấn luyện viên. Tất nhiên là không rồi. Một chiếc xe kinh tởm như vậy chỉ có thể bị hủy diệt bởi ngày tận thế thôi. Ta ngồi ở băng sau, mặc một cái quần ngụy trang hồng chóe vớt vát được trong đống đổ nát. Ta đờ đẫn tới mức chẳng nhớ đã ghé ngang quán Enchiladas del Rey để mua một đống phần ăn đủ để nuôi mấy chục tinh linh tự nhiên.
Trở về phế tích trên đồi, bọn ta cho mở cuộc họp hội đồng xương rồng.
Thủy Thất bây giờ đông đúc các loài tiên cây sa mạc: Joshua, Lê Gai, Lô Hội và nhiều nhiều nữa, tất cả đều mặc trang phục tua tủa gai, cố hết sức để không đâm trúng nhau.
Mellie nhặng xị bên cạnh Gleeson, phút trước hôn tới tấp chồng mình mà khen can đảm, phút sau đã thoi cho một cú vì tội chơi liều mà suýt bỏ lại vợ dại con thơ. Đứa bé con có tên là Chuck cũng đã thức dậy và chẳng vui vẻ gì. Nó liên tục đạp móng vào ngực ông bố đang cố ẵm mình, sau đó đưa bàn tay mũm mĩm giật giật bộ râu dê của ông.
“Ở mặt tích cực,” Hedge nói với Mellie, “bọn anh đã mua được enchiladas, còn anh thì kiếm được một cây côn nhị khúc quá đỉnh!”
Mellie đưa mắt nhìn trời, có lẽ đang ước được trở về cái thuở yên lành làm một đám mây độc thân.
Còn về Meg McCaffrey, cô bé đã hồi tỉnh, trông tươi tắn như đó giờ vẫn vậy, chỉ là có chút nhầy nhụa nhờ có sự chăm sóc của Lô Hội. Meg ngồi bên mép hồ, đong đưa hai chân trong nước, thi thoảng len lén nhìn sang Joshua đẹp trai gần đó đang đứng trầm mặc trong bộ kaki.
Với bản tính chu đáo ân cần ta liền tới hỏi thăm Meg, nhưng bị cô xua đi, bảo là không sao hết. Có lẽ sự có mặt của ta làm cô xấu hổ bởi đang bí mật ngắm nghía Joshua. Ta thấy mà không thể không trợn mắt.
Cưng ơi ta thấy hết đó, ta muốn nói. Cưng chẳng có kín đáo gì cả, mà chúng ta cần bàn lại chuyện cảm nắng tiên cây đi.
Nhưng ta không muốn bị cô ra lệnh tự vả mặt, vậy nên đành im lặng.
Grover phân phát enchiladas cho mọi người. Cậu không ăn gì mà chỉ đi vòng vòng quanh hồ, nhịp nhịp tay lên cây sáo quạt. Dấu hiệu lo lắng thấy rõ.
“Mọi người ạ,” cậu thông báo, “chúng ta gặp vấn đề rồi.”
Ta chẳng bao giờ hình dung Grover Underwood trong vai trò thủ lĩnh. Thế nhưng khi cậu cất tiếng, tất cả tinh linh tự nhiên đều chú ý lắng nghe. Đến cả bé Chuck cũng lặng đi, nghiêng đầu về phía Grover như thích thú muốn đá cho vài phát.
Grover kể lại tất cả những chuyện đã xảy ra từ khi gặp bọn ta ở Indianapolis. Những ngày lần mò qua Mê Cung - vực sâu, hồ nước độc, luồng lửa bất chợt, đàn cú ma, và cuối cùng là con dốc dẫn bọn ta đến phế tích này.
Các tiên cây căng thẳng nhìn quanh như hình dung Thủy Thất bị một đàn cú quỷ xâm chiếm.
“Anh có chắc là chúng ta được an toàn không vậy?” Một cô bé nhỏ nhắn tròn trịa hỏi. Giọng cô bé lơ lớ, mái tóc cài những bông hoa đỏ (còn không là mọc ra những bông hoa đỏ.)
“Tôi không biết nữa Reba.” Grover nhìn sang Meg và ta. “Đây là Rebutia. Gọi tắt là Reba. Cô ấy là xương rồng cấy ghép từ Argentina.”
Ta lịch sự vẫy tay. Chưa từng gặp qua xương rồng Argentina, nhưng ta vốn có cảm tình với Buenos Aires. Các ngươi không biết thế nào là điệu tango thực thụ chừng nào chưa nhảy tango với một vị thần Hy Lạp ở La Ventana đâu.
Grover tiếp, “Tôi không nghĩ trước đây mê cung có lối thoát đó. Giờ nó bị niêm phong rồi. Có lẽ Mê Cung đã giúp bọn tôi, đưa bọn tôi về nhà.”
“Giúp?” Lê Gai ngẩng mặt khỏi đĩa enchiladas phô mai. “Cái Mê Cung đã chứa chấp ngọn lửa tàn phá khắp cả bang ấy hả? Cái Mê Cung chúng ta sục sạo mấy tháng trời hòng tìm ra nguồn lửa trong vô vọng ấy hả? Cái Mê Cung đã nuốt chửng cả chục đội tìm kiếm ấy hả? Vậy Mê Cung sẽ còn ra dạng gì đây khi nó không muốn giúp chúng ta?”
Mấy tiên cây còn lại lầm bầm tán đồng. Một số còn xù gai, đúng nghĩa.
Grover giơ tay trấn an. “Tôi biết mọi người đều rất lo lắng ức chế. Nhưng Địa Cung Lửa không phải là toàn bộ Mê Cung. Chí ít bây giờ chúng ta cũng đã phần nào biết được tại sao tên hoàng đế lại bày ra nơi đó. Chính là vì Apollo.”
Mấy chục tinh linh xương rồng quay ra trừng trừng nhìn ta.
“Nói cho rõ này,” ta lí nhí bảo, “lỗi này không phải tại ta à. Nói với họ đi Grover. Nói với mấy người bạn rất dễ thương, rất… lắm gai của cậu là ta không có lỗi đi.”
Huấn luyện viên hừ một tiếng. “Căn bản là có đấy. Macro nói mê cung là cái bẫy dành cho cậu. Dám chừng là tại cái sấm truyền sấm trấu gì đó cậu đang tìm kiếm.”
Mellie đảo mắt qua lại giữa ta và chồng mình. “Macro? Sấm truyền sấm trấu?”
Ta giải thích việc Zeus bắt mình đi vòng quanh đất nước, giải phóng các nguồn Sấm Truyền cổ xưa để chuộc tội, vì ông ta chính là cái loại ông bố dã man con ngan thế đấy.
Hedge sau đó thuật lại chuyến mua sắm vui vẻ trong Trại Lính Điên Nhà Macro. Tới khi ông ta lạc đề sang mấy loại mìn tính mua thì Grover xen vào.
“Vậy nên bọn này cho nổ banh Macro,” Grover tổng kết, “gã từng là thuộc hạ của hoàng đế hồi thời La Mã. Gã nhắc đến một ả phù thủy nào đó muốn… sao nhỉ, muốn làm phép gì đó lên Apollo, tôi đoán vậy. Và ả đang giúp tên hoàng đế. Bọn tôi đoán chúng giấu Sấm Truyền…”
“Nữ Tiên Tri Vùng Erythrae,” ta nói.
“Vâng,” Grover đồng tình. “Bọn tôi đoán chúng giấu cô ấy ở trung tâm mê cung để làm mồi nhử Apollo. À, còn có một con ngựa biết nói nữa.”
Mặt Mellie bỗng mờ mịt như phủ sương, kể cũng đúng thôi vì bà là nữ thần mây mà. “Ngựa nào chẳng biết nói.”
Grover bèn thuật lại những gì nghe được trong thùng rác. Đoạn tua lại khúc tại sao lại ở trong thùng rác. Đoạn tiện đường giải thích chuyện ta làm ướt quần nên phải mặc cái bộ đồ ngụy trang hồng nóng bỏng này.
Nguyên đám tiên cây đồng thanh Ồ lên như thể đây mới là cái điều họ thắc mắc nãy giờ.
“Quay lại vấn đề chính được không vậy?” Ta nài nỉ. “Chúng ta có chung mục tiêu mà! Các người muốn dập tắt ngọn lửa. Ta cần phải giải phóng Nữ Tiên Tri Vùng Erythrae. Cả hai việc đó đều yêu cầu phải tìm ra trung tâm mê cung. Đó là nơi chúng ta sẽ tìm thấy nguồn lửa cùng Nữ Tiên Tri. Ta chỉ…ta biết chắc.”
Meg nhìn ta chòng chọc như đang chọn xem nên đưa ra mệnh lệnh đáng xấu hổ nào: Nhảy xuống hồ? Ôm Lê Gai? Tìm cái áo cùng tông với quần?
“Nói tôi nghe về con ngựa đi,” cô bảo.
Lệnh đã nhận, không thể không tuân. “Nó tên là Incitatus.”
“Và nó biết nói,” Meg bảo. “Nói theo kiểu con người hiểu được.”
“Đúng vậy, nhưng thường thì nó chỉ nói chuyện với tên hoàng đế. Đừng hỏi ta nó nói bằng cách nào. Hay tới từ đâu. Ta không biết. Nó là ngựa thần. Hoàng đế rất tin tưởng nó, có lẽ là tin hơn bất kì ai khác. Hồi còn cai trị La Mã cổ đại, y đã cho Incitatus mặc trang phục tím của viện nguyên lão, thậm chí còn tính để nó làm quan chấp chính. Ai cũng nghĩ y bị điên, nhưng sự thật thì không đâu.”
Meg nghiêng người nhìn xuống hồ nước, hai vai nhô lên như muốn thu mình vào vỏ ốc. Đám hoàng đế luôn là chủ đề nhạy cảm với Meg. Được nuôi dạy trong triều đình của Nero (phải dùng từ bạo hành và lạm dụng tâm lý mới chính xác), cô đã phản bội ta ở Trại Con Lai, rồi sau đó hồi tâm chuyển ý ở Indianapolis. Cái vấn đề bọn ta đã lướt qua không nhắc đến cũng một thời gian rồi. Ta không trách cô bé đáng thương này. Thật đấy. Nhưng để cô chịu tin tưởng tình bạn của ta, tin tưởng bất kì ai sau khi trải qua những tháng ngày với gã cha dượng Nero, quả thật cứ như huấn luyện một con sóc hoang ăn trên tay người vậy. Một tiếng động lớn thôi sẽ khiến cô lập tức bỏ chạy, cắn, hoặc cắn xong chạy.
(So sánh có hơi khập khiễng. Meg cắn đau hơn sóc hoang nhiều.)
Mãi một lúc sau cô mới nói, “Cái dòng thơ trong lời tiên tri: Chủ nhân phi bạch mã.”
Ta gật đầu. “Incitatus thuộc về tên hoàng đế. Mà không nên nói là thuộc về. Incitatus là cánh tay phải đắc lực của kẻ giờ đã thống trị miền tây nước Mỹ - Gaius Julius Caesar Germanicus.”
Nghe đến đó các tiên cây đúng ra phải thảng thốt kêu lên, thậm chí là đệm cả nhạc nền rùng rợn. Thế nhưng đáp lại ta chỉ có mấy gương mặt ngẩn ngơ. Cái âm thanh rùng rợn duy nhất là tiếng bé Chuck nhai lạo rạo cái hộp phần ăn đặc biệt số 3 của cha mình.
“Cái tên Gaius này,” Meg nói. “Có nổi tiếng không?”
Ta nhìn chằm chằm xuống mặt nước tăm tối. Chẳng thà Meg ra lệnh cho ta trầm mình xuống hồ. Hay bắt ta mặc một cái áo xuyệt tông với cái quần hồng chóe. Thực hiện mấy hình phạt đó còn dễ hơn trả lời câu hỏi của cô.
“Y thường được biết đến qua biệt danh thuở nhỏ,” ta đáp. “Một cái tên y vô cùng căm ghét. Lịch sử nhớ đến y dưới cái tên Caligula.”