Apollo, vận y phục hóa trang
Thành Apollo, trong bộ dạng…
Ôi buồn, không kể đâu.
ĐÁM LÍNH ĐÁNH THUÊ không có dấu hiệu đuổi theo. Cũng phải thôi. Đến cả những chiến sĩ dày dạn nhất e cũng không truy đuổi gì nổi sau màn biểu diễn vừa rồi. Chắc hẳn chúng đang ôm nhau khóc, còn không là lục lọi thuyền để kiếm thêm khăn giấy.
Bọn ta băng qua loạt du thuyền thuộc số ba mươi, lén lút khi cần thiết, nhưng chủ yếu vẫn dựa vào sự đồng cảm của đám thủy thủ mỗi khi chạm mặt. Caligula mang đến nỗi khiếp sợ cho đám thuộc hạ, nhưng thế không đồng nghĩa với trung thành. Không ai hỏi han gì bọn ta.
Tới tàu bốn mươi, Piper đổ gục. Ta vội chạy tới đỡ nhưng liền bị gạt ra.
“Em không sao,” cô khẽ nói.
“Không sao cái con khỉ,” ta nói. “Em quá nửa bị chấn thương đầu rồi. Em vừa sử dụng một loại bùa mê âm nhạc rất mạnh. Em cần phải nghỉ một chút đi.”
“Chúng ta không có một chút.”
Ta biết rõ lắm chứ. Tiếng súng lạch tạch vẫn vọng đến từ cái phía bọn ta vừa đi tới. Tiếng réc nặng nề của lũ cú ma vẫn xé toạc trời đêm. Hai người kia đang bán mạng để câu giờ, bọn ta không thể ngồi đó mà phung phí.
Đêm nay cũng là đêm trăng non. Cái âm mưu Caligula dành cho Trại Jupiter ở tít tận phía bắc đang tiến hành ngay lúc này. Ta chỉ có thể cầu mong Leo đã tới được chỗ các á thần La Mã, và rằng họ có thể chống đỡ được bất kì mối nguy nào. Bất lực không cách nào giúp đỡ quả là một cảm giác kinh khủng. Ta vì thế lại càng sốt ruột không muốn phí phạm thời gian.
“Nhưng mà,” ta nói với Piper, “ta thật sự không có thời gian để em lăn ra chết hay hôn mê đâu. Vậy nên em phải ngồi nghỉ một chút đi. Tìm chỗ nào thông thoáng nào.”
Piper đã yếu tới mức không còn cãi nổi. Với tình trạng hiện tại, không khéo cô còn chẳng thể dùng lời mê hoặc để thoát vé phạt vì đỗ xe bậy nữa kìa. Ta dìu cô vào trong chiếc du thuyền bốn mươi. Hóa ra nơi này là tủ quần áo của Caligula.
Cả hai đi qua một loạt dãy phòng đầy ắp quần áo: đồ vét, toga, giáp, áo đầm (sao lại không chứ?), rồi một đống đồ hóa trang đủ loại từ hải tặc đến Apollo đến gấu trúc. (Một lần nữa, sao lại không?)
Ta rất muốn hóa trang thành Apollo, chỉ để tự thương thân, nhưng không muốn tốn thời gian sơn lớp sơn vàng. Sao người phàm lúc nào cũng nghĩ ta là một khối vàng thế nhỉ? Ừ thì ta có thể biến thành vàng, nhưng cái sự lóng lánh long lanh kia tỏa ra từ diện mạo anh tuấn trời sinh của ta mà. Nhầm: diện mạo anh tuấn trời sinh trước đây của ta.
Cuối cùng bọn ta cũng tìm được một phòng thay quần áo có ghế ngồi. Ta dời chồng váy dự tiệc qua một bên, bắt Piper ngồi xuống. Ta móc ra một mẩu bánh thánh vỡ vụn, bắt cô ăn hết. (Ôi trời, tới lúc cần ta cũng làm giọng mẹ người ta được lắm chứ. Chí ít ta vẫn chưa mất cái năng lực thần thánh này.)
Trong lúc Piper gặm mẩu bánh năng lượng thần linh, ta ủ rũ nhìn ra mấy giá treo trang phục may đo theo chuẩn. “Sao mớ giày lại không ở đây chứ? Đây là tàu quần áo của y mà.”
“Thôi nào Apollo.” Piper cựa người trên nệm, không khỏi nhăn mặt. “Ai cũng biết ta cần phải có một chiếc du thuyền riêng chỉ để đựng giày.”
“Ta chẳng biết em đùa hay thật nữa.”
Cô cầm lên chiếc váy Stella McCartney - một chiếc váy xinh xắn xẻ sâu bằng lụa đỏ. “Đẹp ha.” Rồi cô cắn răng rút dao ra, rạch một đường dài lên chiếc váy.
“Thích thật,” cô bảo.
Với ta thì đó chỉ là hành động vô nghĩa. Caligula có sứt mẻ tí nào khi ta làm hư đồ của y đâu. Y có tất cả mọi thứ. Mà Piper cũng chẳng vui vẻ gì hơn. Nhờ có bánh thánh, sắc mặt cô đã tươi tắn hơn chút. Mắt không còn dại đi vì đau. Nhưng biểu cảm nơi cô vẫn âm u như trời bão, y hệt bà mẹ mỗi khi ai đó khen Scarlett Johansson xinh đẹp. (Mách nhỏ này: Chớ bao giờ nhắc tới Scarlett Johansson trước mặt Aphrodite.)
“Cái bài em hát cho đám lính đánh thuê,” ta đánh bạo nói, “Ảo Ảnh Cuộc Đời.”
Khóe mắt Piper nheo lại như biết rằng cuộc nói chuyện này rồi sẽ tới, nhưng lại không còn sức để tránh né. “Là một kí ức hồi lâu lắm rồi. Ngay sau khi cha em có được vai diễn lớn đầu tiên, ông đã mở bài đó trên xe. Cha con em đang trên đường tới nhà mới, cái căn ở Malibu ấy. Ông hát cho em nghe. Cả hai đều rất vui vẻ. Lúc đó em đang học… không nhớ nữa, mẫu giáo chăng?”
“Nhưng cách em hát. Dường như em đang nói về chính mình, lí do em chia tay Jason?”
Cô ngắm nghía con dao. Lưỡi dao trơn nhẵn, không hiện lên bất cứ điềm báo nào.
“Em đã cố,” cô khẽ nói. “Sau cuộc chiến với Gaia, em tự thuyết phục mình là mọi thứ sẽ hoàn hảo. Trong một thời gian, chắc là vài tháng, em đã thật sự cảm thấy vậy. Jason rất tuyệt. Cậu ấy là người bạn thân nhất của em, còn thân hơn Annabeth nữa. Nhưng mà…” cô xòe hai tay, “cái điều em mong đợi, cái hạnh phúc mãi mãi về sau của em… nó không có tồn tại.”
Ta gật đầu. “Mối quan hệ của cả hai sinh ra từ trong khủng hoảng. Thứ tình cảm đó thường khó duy trì một khi khủng hoảng đã qua đi.”
“Không phải chỉ có vậy.”
“Một thế kỉ trước ta có hẹn hò Nữ Đại Công Tước Tatiana Romanov,” ta hồi tưởng. “Bọn ta yêu nhau thắm thiết suốt giai đoạn Cách Mạng Nga. Nàng lúc nào cũng sống trong căng thẳng sợ hãi, luôn cần đến ta. Rồi khủng hoảng qua đi, và phép màu cứ thế biến mất. Khoan, thật ra là do nàng bị bắn chết cùng cả nhà mình cơ, nhưng mà…”
“Là do em.”
Tâm trí ta vừa rồi đã trôi về Cung điện Mùa Đông, lang thang giữa khói súng cay nồng và cái lạnh cắt da của năm 1917. Nghe cô nói thế, ta giật mình quay về hiện tại. “Là do em tức là sao? Em muốn nói việc mình không yêu Jason ấy à? Đó đâu phải lỗi của ai.”
Cô nhăn mặt như thể ta vẫn không nắm được ý cô… hoặc giả chính bản thân cô cũng không rõ.
“Em biết không ai có lỗi,” cô nói. “Em yêu cậu ấy chứ. Nhưng mà… em nói rồi đó, Hera buộc tụi em đến với nhau - nữ thần hôn nhân, sắp đặt nên mối lương duyên hạnh phúc. Kí ức của em về việc bắt đầu hẹn hò Jason, những tháng đầu ở bên nhau, tất cả chỉ là ảo ảnh. Rồi ngay khi em phát hiện ra chuyện đó, khi em còn chưa kịp hiểu thế tức là thế nào thì Aphrodite nhận mặt em. Mẹ em, nữ thần tình yêu.”
Cô lắc đầu chán nản. “Aphrodite bắt em phải nghĩ em là… rằng em cần phải…” Cô thở dài. “Nhìn em đi, một kẻ giỏi mê hoặc lòng người. Em chẳng được ý kiến tới một tiếng. Aphrodite kì vọng tất cả những đứa con gái của mình phải quay bọn đàn ông như quay dế, chơi với họ rồi phụ tình họ, vân vân mây mây.”
Ta nhớ lại những lần cãi nhau sứt đầu mẻ trán với Aphrodite. Ta bị cuồng yêu. Còn Aphrodite lại rất thích gửi đến cho ta những người tình bi kịch. “Phải. Mẹ em có những lí tưởng rất cụ thể về tình yêu lãng mạn.”
“Vậy nên thử ngẫm đi,” Piper nói, “nữ thần hôn nhân thúc giục em thành đôi với một cậu trai tốt tính, nữ thần tình yêu thúc giục em trở thành một cô nàng sát trai thả thính khắp nơi…”
“Em bắt đầu tự hỏi mình là ai nếu không bị áp lực đủ bề như vậy.”
Cô nhìn xuống chiếc váy đỏ tả tơi. “Theo quan niệm của người Cherokee, dòng dõi của ta thuộc về bên mẹ. Bộ tộc của mẹ mình là bộ tộc của mình. Bên cha không cần tính.” Cô buông tiếng cười giòn tan. “Có nghĩa xét ra em còn không phải người Cherokee. Em không thuộc về bảy đại tộc vì mẹ em là nữ thần Hy Lạp.”
“À.”
“Vậy nên em còn gì để định nghĩa nên bản thân nữa đây? Mấy tháng qua em đã cố học hỏi nhiều hơn về gốc gác của mình. Sử dụng ống xì đồng của ông nội, hỏi chuyện gia đình với cha để ông khuây khỏa đầu óc. Nhưng nếu nhỡ em không phải là tất cả những điều mọi người bảo thì sao? Em phải tìm xem mình thật sự là ai.”
“Em đi đến được kết luận nào chưa?”
Cô vén tóc ra sau vành tai. “Vẫn còn đang trong quá trình.”
Ta hiểu. Ta cũng còn đang trong quá trình. Thật là đau đớn.
Một lời ca trong bài hát của Joe Walsh bỗng bật lên trong đầu ta. “Trời cao yêu những bất ngờ nho nhỏ,” ta nói.
Piper khịt mũi. “Chắc rồi.”
Ta đưa mắt nhìn số trang phục của Caligula, mọi thứ từ váy cưới đến vét Armani đến giáp võ sĩ giác đấu.
“Theo như ta quan sát thấy,” ta bảo, “con người các em không chỉ là kết tinh của lịch sử mình mang. Em có thể chọn thừa hưởng điều gì từ tổ tiên. Em có thể vượt qua kì vọng của gia đình và xã hội. Cái điều em không thể làm, và cũng không nên làm, đó là trở thành ai đó khác với bản thân mình, Piper McLean ạ.”
Cô cười gượng với ta. “Nghe hay đó. Em thích lắm. Anh có chắc anh không phải là thần thông thái đấy chứ?”
“Đã đăng kí rồi, nhưng người khác được chọn. Nghe đâu có liên quan tới phát minh ra cây ô liu.” Ta trợn mắt.
Piper cười phá lên, làm ta khoan khoái như cơn gió mạnh xua hết khói mù khỏi California. Ta toét miệng cười đáp lại. Lần cuối cùng ta được vui vẻ tâm sự với một người bạn ngang hàng, một tâm hồn đồng điệu thế này là khi nào? Ta chẳng nhớ nổi.
“Được rồi vị thần thông thái.” Piper chống tay đứng dậy. “Chúng ta phải đi thôi. Còn cả đống tàu để đột nhập kìa.”
Tàu bốn mươi mốt: khu vực đồ lót. Để ta bỏ qua mấy chi tiết diêm dúa giùm các ngươi.
Tàu bốn mươi hai: một chiếc siêu du thuyền bình thường, vài thủy thủ ngó lơ bọn ta, hai lính đánh thuê bị Piper mê hoặc nhảy xuống biển, một gã người hai đầu bị ta bắn vào háng (ăn may cả đấy) rồi tan ra thành bụi.
“Sao lại để một chiếc tàu bình thường giữa tàu quần áo và tàu giày nhỉ?” Piper trầm ngâm. “Tổ chức kém quá.”
Cô điềm tĩnh đến khó tin. Trong khi thần kinh ta đã bung ra gần hết. Ta có cảm giác mình đang tách thành nhiều mảnh nhỏ, hệt như cái lần mấy chục đô thành khắp Hy Lạp cùng lúc cầu khấn ta hiện thân. Điên cả người khi mấy cái thành đó không chịu sắp xếp thứ tự tổ chức ngày lễ với nhau.
Băng qua mạn trái, chợt ta thoáng thấy chuyển động lướt qua trên đầu. Một cái bóng trắng lượn lờ, to hơn mòng biển nhiều. Nhìn lại lần nữa, nó đã biến mất.
“Hình như tụi mình bị theo dõi,” ta bảo. “Anh bạn Crest.”
Piper quét mắt qua nền trời đêm. “Giờ làm gì đây?”
“Đừng làm gì cả,” ta bảo. “Nếu nó muốn tấn công hay báo động thì đã làm rồi.”
Piper chẳng vui vẻ gì với gã bám đuôi tai to, nhưng vẫn tiếp tục đi tới.
Cuối cùng cả hai cũng tới được chiếc Julia Drusilla XLIII, con tàu chở giày trong truyền thuyết.
Lần này, nhờ có bọn Amax mách trước nên bọn ta biết trên tàu có cự nhĩ canh gác, với thủ lĩnh là Wah-Wah đáng sợ. Cả hai đã chuẩn bị sẵn sàng để xử lý chúng.
Đặt chân xuống boong trước, ta thủ sẵn ukulele trong tay. Piper thấp giọng nói, “Chà, hy vọng không ai nghe thấy bí mật của tụi mình!”
Ngay lập tức bốn cự nhĩ kéo nhau chạy tới. Hai tên mạn trái, hai tên mạn phải, tất cả xô đẩy nhau để tới chỗ bọn ta trước.
Vừa thấy được nhúm lông trong tai chúng, ta liền gảy mạnh một hợp âm ba đô thứ sáu, với đám sinh vật có thính giác siêu nhạy này thật chẳng khác gì bị ngoáy tai bằng dây điện.
Đám cự nhĩ ré lên, đổ gục xuống, cho Piper thời gian tước hết vũ khí rồi trói tay chân chúng lại. Đợi đâu vào đó rồi ta mới thôi màn tra tấn màn nhĩ bằng ukulele.
“Ai trong bọn bây là Wah-Wah?” Ta hỏi.
Tên cự nhĩ ngoài cùng bên trái gầm lên, “Ai muốn biết?”
“Chào Wah-Wah,” ta nói. “Bọn này đang tìm đôi giày thần của hoàng đế. Ngươi biết đấy, cái đôi cho phép y đi qua Địa Cung Lửa ấy. Ngươi tiết kiệm thời gian giùm bọn ta bằng cách cho biết đôi giày để đâu đi nhé.”
Hắn vừa giãy giụa vừa rủa xả. “Đừng hòng!”
“Còn không ta sẽ để cô bạn Piper đây đi tìm, còn ta ở lại hát giúp vui cho các ngươi bằng cây ukulele lạc dây này nhé. Các ngươi có biết bài ‘Nhón Chân Qua Vườn Tulip’ của Tiny Tim không?”
Wah-Wah co giật cả người. “Tầng hai, mạn trái, cửa thứ ba!” Hắn lắp bắp. “Xin đừng là Tiny Tim! Đừng là Tiny Tim!”
“Buổi tối vui vẻ,” ta nói.
Rồi bọn ta để chúng yên bình nằm đó và lên đường đi tìm giày.