Hợp âm treo bậc bốn
Rất thích hợp để chơi
Ngay trước khi đột ngột…
MỘT LẦN NỮA TA THỨC GIẤC với dịch nhầy trét đầy người và gai lô hội nhét kín mũi.
Ở mặt tích cực, xương sườn ta không còn cảm giác đổ đầy dung nham nữa. Ngực cũng đã lành, chỉ để lại một vết sẹo nhăn nheo nơi ta tự đâm mình. Ta chưa từng có sẹo. Hy vọng đây có thể xem là huân chương danh dự. Thế nhưng chỉ sợ mỗi khi nhìn xuống, ta sẽ chỉ nhớ đến cái đêm khủng khiếp nhất đời mình.
Chí ít ta đã có một giấc ngủ say không mộng mị. Cái nhựa lô hội đó đúng là tốt thật nha.
Ánh nắng rực rỡ rọi qua miệng giếng bên trên. Thủy Thất vắng tanh chỉ còn ta và Crest. Thằng nhóc cự nhĩ nằm ngáy o o trong hốc, ôm chặt cây ukulele như ôm gấu bông. Ai đó đã đặt đĩa enchiladas cùng phần sođa cỡ đại cạnh túi ngủ ta. Chắc cũng vài tiếng rồi, phần ăn đã nguội lạnh cả. Đá trong ly cũng tan hết. Ta chẳng quan tâm, lập tức ngấu nghiến chén sạch tất cả. Thật cám ơn cái vị ớt cay đã xua sạch mùi thuyền cháy ra khỏi hốc mũi ta.
Sau khi lau sạch nhựa cây rồi tắm rửa trong hồ, ta thay vào một bộ đồ ngụy trang mới của tiệm Macro - trắng bắc cực, vì ở sa mạc Mojave này người ta vẫn có nhu cầu như thế đó.
Ta đeo cung tên lên vai. Cột đôi giày của Caligula vào thắt lưng. Ta tính xem có nên lấy lại cây ukulele nhưng quyết định cứ để Crest tạm giữ, vì ta không muốn bị cắn cụt tay.
Cuối cùng, ta leo ra khỏi giếng, bước vào cái nóng hầm hập của Palm Springs.
Dựa vào góc nắng, giờ chắc đã là ba giờ chiều. Sao Meg lại để ta ngủ nướng thế nhỉ? Ta quét mắt qua sườn đồi, không thấy một ai. Trong thoáng giây áy náy, ta hình dung Meg và Grover vì không thể đánh thức được ta nên đã tự mình đi xử lý cái mê cung.
Mờ nó! Ta sẽ nói thế khi họ về. Xin lỗi nha! Ta chuẩn bị sẵn sàng hết rồi nè!
Nhưng không. Đôi xăng đan của Caligula vẫn đang tòn ten bên hông ta. Họ sẽ không đi mà không có nó. Ta cũng không nghĩ họ sẽ bỏ quên Crest, cái kẻ duy nhất biết lối vào tuyệt mật của mê cung.
Bỗng một chuyển động thoáng qua khóe mắt ta - hai cái bóng lấp ló sau căn nhà kính gần nhất. Ta bước đến, nghe thấy hai giọng người đang chuyện trò thân mật. Là Meg và Joshua.
Ta không khỏi phân vân giữa để mặc họ với bước ra kêu Meg à, giờ không phải lúc thả thính cậu bạn cây của em đâu!
Rồi ta nhận ra hai người đó đang bàn về thời tiết với chả mùa vụ. Ều. Ta bước ra, nhìn thấy cả hai đang quan sát một hàng bảy cây non vươn mình qua lớp đất sỏi… ở chính xác cái nơi Meg gieo hạt hôm qua.
Joshua nhìn thấy ta ngay, bằng chứng cho thấy bộ đồ ngụy trang bắc cực này rất có hiệu quả.
“Chậc. Ngài ấy còn sống.” Giọng cậu ta chẳng lấy gì làm sung sướng. “Bọn tôi đang bàn về mấy cây mới này.”
Mỗi cây cao gần một mét, thân màu trắng, lá hình thoi màu xanh nhạt, quá mỏng manh để tồn tại giữa sa mạc nóng bức này.
“Đây là cây tần bì,” ta ngẩn người.
Ta rất rành về cây tần bì…Ờ thì rành hơn những loài cây khác. Hồi xưa ta từng được gọi là Apollo Meliai, Apollo Tần Bì, vì sở hữu cánh rừng thiêng ở… đâu ấy nhỉ? Hồi đó ta có nhiều khu du lịch nghỉ dưỡng quá nên chẳng nhớ hết.
Tâm trí ta bắt đầu tăng tốc. Cái từ meliai còn có nghĩa gì đó nữa ngoài tần bì. Nó có một ý nghĩa đặc biệt. Mặc dù được trồng ở một nơi khắc nghiệt thế này, mấy cái cây non kia vẫn tỏa ra thứ năng lượng cuồn cuộn tới mức cả ta cũng cảm nhận được. Chỉ trong một đêm chúng đã lớn tới cỡ này. Đến ngày mai chúng sẽ còn ra dạng gì nữa?
Meliai… Cái từ xoay vòng trong đầu ta. Caligula đã nói gì nhỉ? Vợ bạc thuần huyết.
Meg cau mày. Sáng nay nhìn cô bé khá hơn nhiều, trở lại trong bộ trang phục đèn giao thông đã được giặt giũ vá víu như mới. (Chắc là mấy tiên cây rồi, họ dệt vải giỏi lắm.) Gọng kính dán lại bằng băng keo xanh. Mấy vết sẹo trên người phai thành những vệt trăng trắng như đuôi sao chổi quét qua nền trời.
“Tôi không hiểu,” cô nói. “Tần bì không mọc ở sa mạc. Sao cha tôi lại đi nghiên cứu cây tần bì?”
“Các Meliai,” ta nói.
Mắt Joshua hấp háy. “Tôi cũng nghĩ vậy.”
“Ai cơ?” Meg hỏi.
“Ta tin rằng cha em không chỉ đơn thuần nghiên cứu một giống cây chịu hạn mới đâu. Ông ta đang cố tái tạo… hay đúng hơn là tái sinh một loài tiên cây cổ xưa.”
Có phải mấy cành cây nhỏ kia vừa rung lên không vậy? Ta dằn lòng không quay đầu bỏ chạy. Đây chỉ là mấy cái cây non thôi mà, ta tự nhắc. Mấy bé cây vô hại xinh xinh không có bất kì ý định giết người nào.
Joshua quỳ xuống. Trong bộ đồ kaki đi rừng cùng mái tóc xanh xám bù xù, nhìn cậu như một chuyên gia về động vật hoang dã đang chuẩn bị chỉ cho khán giả truyền hình xem một loài bò cạp độc. Thế nhưng cậu chỉ chạm tay vào một cành cây non, đoạn vội vàng rụt lại.
“Có thể không?” Cậu làm mặt đăm chiêu. “Họ vẫn chưa có ý thức, nhưng sức mạnh mà tôi cảm nhận được…”
Meg khoanh tay, bĩu môi nói. “Chậc, tôi mà biết chúng là cây tần bì quan trọng gì gì đó thì đã không trồng ở đây rồi. Không ai nói với tôi hết.”
Joshua cười nhạt. “Meg McCaffrey ạ, nếu đây đúng là các Meliai thì họ sẽ sống tốt kể cả trong điều kiện khắc nghiệt này. Họ là những tiên cây đầu tiên của thế gian. Khi Ouranos bị sát hại, máu ngài đã thấm vào đất mẹ Gaia và cho ra đời bảy chị em này. Họ được tạo ra cùng lúc với các nữ thần Đại Nộ, với cùng thứ sức mạnh phi thường ấy.”
Rùng mình, ta không ưa mấy mụ nữ thần Đại Nộ chút nào. Cái đám xấu xí, nóng tính, gu âm nhạc dở tệ. “Thuần huyết,” ta nói. “Caligula gọi họ như thế. Những người vợ bạc nữa.”
“Ừmm.” Joshua gật gù. “Theo truyền thuyết thì các Meliai đã kết hôn với con người ở thời đại Bạc, sinh ra giống người ở thời đại Đồng. Nhưng chúng ta ai chẳng mắc sai lầm.”
Ta quan sát mấy cái cây non. Nhìn chúng không giống mẹ của giống người Đồng. Lại càng không giống các nữ thần Đại Nộ.
“Cho dù là một nhà thực vật học tài năng như tiến sĩ McCaffrey,” ta nói, “cho dù nhận được phúc lành của Demeter… nhưng liệu hồi sinh những sinh vật quyền năng cỡ này là thật sự có thể sao?”
Joshua trầm ngâm đong đưa người. “Ai biết được? Xem ra gia tộc Plemnaeus đã đeo đuổi mục tiêu này suốt cả ngàn năm. Còn ai thích hợp hơn được nữa. Tiến sĩ McCaffrey hoàn thiện hạt giống. Con gái ông đem đi gieo trồng.”
Meg đỏ mặt. “Tôi không biết. Sao cũng được. Vụ này dị quá.”
Joshua chăm chú nhìn mấy cây tần bì non. “Giờ phải chờ thôi. Nhưng hãy tưởng tượng bảy tiên cây thượng cổ, sở hữu sức mạnh siêu phàm, quyết tâm bảo vệ thiên nhiên và tiêu diệt bất kì ai đe dọa đến môi trường.” Mặt cậu bỗng sặc mùi hiếu chiến chẳng giống một cái cây hoa chút nào. “Hèn gì Caligula lại xem đây là hiểm họa.”
Không có gì để ta phản bác. Một mối họa lớn tới mức phải thiêu rụi nơi ở của một nhà thực vật học, đẩy cha con họ thẳng vào tay Nero? Hẳn rồi.
Joshua đứng dậy. “Chậc, tôi phải đi ngủ đây. Đến cả tôi cũng không thể thức quá lâu vào ban ngày. Bọn tôi sẽ trông chừng bảy người bạn mới này. Chúc các vị có chuyến hành trình may mắn!
Nói đoạn cậu tan biến vào một đám mây lá gai.
Meg làm mặt cáu kỉnh, chắc vì bị ta phá hỏng màn xướng họa về các đới khí hậu với ai kia.
“Tần bì,” cô làu bàu. “Vậy mà tôi lại đem trồng ở sa mạc.”
“Em trồng chúng ở nơi dành cho chúng,” ta nói. “Nếu đây đúng là các Meliai,” ta lắc đầu kinh ngạc, “vậy thì họ sẽ hồi đáp lại em đấy Meg. Em hồi sinh một nguồn sống đã lụi tàn cả thiên niên kỉ. Này còn hơn cả đáng nể nữa kìa.”
Cô nhìn sang. “Anh đang giễu tôi đấy hở?”
“Làm gì có. Em đúng là con của mẹ em đấy, Meg McCaffrey. Rất là lợi hại.”
“Hừm.”
Ta hiểu được thái độ hoài nghi nơi cô.
Demeter hiếm khi được miêu tả là lợi hại. Thường thì nữ thần hay bị trêu là không thú vị hay không hùng mạnh. Như các loài cây cỏ, tiến trình làm việc của Demeter rất chậm chạp và lặng lẽ. Công trình của bà phát triển qua cả mấy trăm năm. Nhưng đến ngày đơm hoa kết trái, ta mới thấy hết được sự phi thường của chúng. Như Meg McCaffrey đây vậy.
“Gọi Crest dậy đi,” Meg bảo. “Tôi chờ anh dưới đường. Grover đi kiếm xe cho chúng ta rồi.”
Grover giỏi kiếm xe xịn chẳng kém Piper McLean. Cậu đã tìm cho cả bọn một chiếc Mercedes XLS đỏ, thường thì ta chẳng ý kiến gì đâu, chỉ là chiếc này có cùng màu cùng mẫu với chiếc Meg và ta lái từ Indianapolis tới Hang Trophonius.
Ta rất muốn nói là mình không tin vào điềm gở. Nhưng vì ta là thần báo điềm gở…
Ít nhất Grover cũng chịu lái. Gió đổi chiều về phía nam, thung lũng Morongo vì thế lại càng ngập ngụa khói xe lẫn khói cháy rừng hơn cả bình thường. Ánh nắng ban chiều chiếu xuyên qua tầng trời đỏ như một cái lừ mắt hiểm độc.
Ta sợ rằng mặt trời sẽ đeo cái bộ mặt thù địch đó suốt cả đời còn lại nếu Caligula trở thành thần mặt trời mới… nhưng không, ta không được có tư tưởng đó.
Nếu Caligula trở thành chủ nhân cỗ xe mặt trời, ai biết được y sẽ độ xe thành cái dạng khủng bố gì chứ: máy tạo âm, sấm sét dưới gầm xe, còi phát nhạc “Low Rider”… Những thứ không ai nuốt nổi.
Ta ngồi cùng Crest ở băng sau, dạy nó mấy hợp âm ukulele cơ bản. Bàn tay tuy quá khổ nhưng thằng nhóc lại học rất nhanh, có điều nó chẳng mấy chốc đã đâm chán mấy hợp âm trưởng, nằng nặc đòi học mấy tổ hợp độc đáo hơn.
“Chỉ lại cho tôi hợp âm treo bậc bốn đi,” nó nói. “Tôi thích cái đó.”
Dĩ nhiên nó phải thích cái hợp âm lửng lơ con cá nhảy nhất rồi.
“Ngươi cần một cây ghita cỡ lớn,” ta cố thuyết phục lần nữa. “Thậm chí là đàn luýt.”
“Ông chơi ukulele,” nó nói. “Tôi chơi ukulele.”
Sao ta lúc nào cũng thu hút mấy người đồng đội cứng đầu như trâu thế nhỉ? Có phải tại cái tính dễ dãi ai thấy cũng yêu này không? Chẳng biết.
Vẻ mặt tập trung của Crest lạ lùng thay làm ta liên tưởng tới Meg. Cũng một gương mặt non nớt nhưng vô cùng chuyên chú, như thể số phận thế giới đều phụ thuộc vào cái hợp âm này chơi có đúng không, gói hạt giống này trồng có lên cây không, túi rác thúi um này chọi có trúng mặt thằng du côn nọ không.
Có phải tại nét tương đồng đó mà ta có cảm tình với Crest không, ta chẳng rõ. Nhưng ta bỗng nhận ra từ tối qua tới giờ thằng nhóc đã mất đi những gì - công việc, ông chú, suýt nữa là tính mạng. Nó đã phải đánh đổi rất nhiều để đi với bọn ta.
“Ta vẫn chưa nói lời chia buồn,” ta đánh bạo nói, “về chú Amax của ngươi.”
Crest hít hít cái phím đàn. “Sao ông phải buồn? Sao tôi phải buồn?”
“Ừm… chỉ là một cách nói lịch sự… khi mình giết mất người thân của ai đó.”
“Tôi không ưa ông ta,” Crest nói. “Mẹ bắt tôi tới sống với chú, nói là chú sẽ đào tạo tôi thành một chiến binh cự nhĩ thực thụ.” Nó lướt tay qua phím đàn, vô tình gảy thành hợp âm giảm bảy. Nó thích thú ra mặt. “Tôi không muốn trở thành chiến binh. Ông làm nghề gì?”
“Ừm… ờ, ta là thần âm nhạc.”
“Vậy tôi sẽ làm nghề đó. Thần âm nhạc.”
Meg liếc nhìn ra sau, nhếch môi cười cười.
Ta gượng cười khích lệ Crest, vái thầm trong bụng rằng nó sẽ không đòi lóc thịt lột da rồi hấp thụ thánh lực ta. Ta đã có cả danh sách chờ cho việc đó rồi. “Chậc, trước tiên hãy luyện thuần thục mấy hợp âm này trước đã nhé?”
Cả bọn chạy về phía bắc LA, băng qua Bernardino, rồi tới Pasadena. Ta bất giác ngó lên ngọn đồi tọa lạc ngôi trường Edgarton. Ban giám hiệu sẽ làm gì khi phát hiện Jason Grace đã mất tích còn chiếc xe tải thì bị bỏ lại tận cảng Santa Barbara? Ta nghĩ đến cái mô hình đồi Đền Thờ trên bàn Jason, những quyển sổ thiết kế nằm chờ trên ngăn kệ. Khả năng ta sống tới ngày thực hiện được lời hứa đưa bản kế hoạch đến cho hai trại coi bộ không cao. Nghĩ đến việc phụ lòng cậu lần nữa, tim ta nhói lên đau buốt còn hơn cả nghe Crest chơi điệu son giáng thứ.
Cuối cùng, Crest chỉ bọn ta chạy lên Xa lộ liên bang 5, hướng về thành phố ở phía nam. Chiếc xe rẽ vào lối ra Crystal Springs, chạy thẳng vào công viên Griffith, vòng vèo qua những ngọn đồi đánh gôn trập trùng cùng cánh rừng bạch đàn bạt ngàn.
“Đi tiếp đi,” Crest nói. “Ngả thứ hai bên phải. Lên ngọn đồi đó.”
Nó chỉ bọn ta chạy vào một con đường phụ trải đá xanh không phù hợp cho xe Mercedes XLS.
“Trên đó.” Crest chỉ vào rừng. “Chúng ta phải đi bộ.”
Grover đỗ lại cạnh một bụi cây ngọc giá, theo ta biết thì là bạn bè của cậu. Cậu kiểm tra đầu đường, thấy một tấm bảng nhỏ ghi SỞ THÚ LOS ANGELES CŨ.
“Tôi biết chỗ này.” Chòm râu dê của Grover run run. “Tôi không thích ở đây. Ngươi dẫn bọn ta tới đây làm gì?”
“Nói rồi,” Crest đáp. “Lối vào mê cung.”
“Nhưng mà…” Grover nuốt khan, nhất định đang cân nặng nhẹ giữa bản năng tránh xa những nơi giam cầm thú vật với khao khát phá hủy Địa Cung Lửa. “Thôi được.”
Meg vẫn bày ra bộ dạng vui vẻ. Cô bé hít sâu làn hơi trong-lành-theo-tiêu-chuẩn-LA, thậm chí còn lộn mèo vài cú trên đường lên đồi.
Bốn người leo lên tới đỉnh đồi. Trải dài dưới kia là một khu sở thú hoang tàn. Cỏ dại mọc kín lối đi, tường xi măng nứt nẻ, chuồng sắt rỉ sét, mấy cái hang nhân tạo chất đầy gạch vụn.
Grover ôm lấy người, không lạnh mà run. “Mấy chục năm trước người ta đã xây một sở thú mới rồi bỏ hoang nơi này. Tôi vẫn cảm nhận được cảm xúc của những con vật bị nhốt ở đây. Nỗi buồn của chúng. Thật khủng khiếp.”
“Dưới này!” Crest xòe tai bay lướt qua khu sở thú, đáp xuống một cái hố sâu.
Không có đôi tai biết bay, ba người bọn ta đành phải từ từ tìm đường leo xuống. Cuối cùng cả bọn cũng nhập hội với Crest dưới đáy một cái chuồng xi măng dơ bẩn, xung quanh toàn là lá mục với rác rưởi.
“Chuồng gấu sao?” Mặt Grover tái ngắt. “Mấy con gấu đáng thương.”
Crest áp hai bàn tay tám ngón lên bức tường cuối chuồng, mày bỗng cau lại. “Không đúng. Nó phải ở đây chứ.”
Tinh thần ta chùng xuống một tầm thấp mới. “Cái lối vào bí mật của ngươi biến mất rồi sao?”
Crest rít lên tức tối. “Biết thế tôi đã không kể cho Screamer. Chú Amax chắc đã nghe được. Ông ta đã làm gì đó để niêm phong lối vào rồi.”
Ta rất muốn chỉ ra rằng tiết lộ bí mật với một kẻ tên Screamer11 chưa bao giờ là ý hay hết, nhưng nhìn Crest thấy tội quá rồi nên thôi.
11 Screamer có nghĩa là kẻ la hét.
“Giờ sao?” Meg hỏi. “Dùng cái lối ở nội thành à?”
“Nguy hiểm lắm,” Crest nói. “Nhất định phải có cách để mở cái cửa này chứ!”
Grover cứ nhấp nha nhấp nhổm như có sóc bò trong quần. Coi bộ cậu chàng đang tha thiết muốn vứt bỏ tất cả mà phóng thật nhanh khỏi cái sở thú này. Nhưng rồi cậu cũng thở dài bảo. “Lời tiên tri đã nói gì về kẻ dẫn đường mang móng guốc của các người ấy nhỉ?”
“Rằng cậu nắm rõ lối đi,” ta nhớ lại. “Nhưng cậu đã thực hiện phần tiên tri đó bằng việc đưa bọn ta tới Palm Springs rồi còn gì.”
Grover miễn cưỡng rút ống sáo ra. “Coi bộ tôi chưa xong việc đâu.”
“Một khúc nhạc mở cửa sao?” Ta hỏi. “Như cái bài Hedge chơi ở cửa hàng Macro ấy à?”
Grover gật đầu. “Lâu rồi tôi không thử. Lần cuối cùng thổi bài này tôi đã mở ra một con đường từ Công viên Trung Tâm xuống thẳng Âm Phủ.”
“Cứ mở đường vào địa cung thôi. Đừng có nhầm thành Địa Ngục,” ta bảo.
Cậu đưa sáo lên thổi bài “Tom Sawyer” của Rush. Crest mê mẩn đến ngẩn ngơ. Meg bịt tai lại.
Bức tường xi măng rung lắc. Nó nứt ra ngay chính giữa, để lộ một cái cầu thang gồ ghề dẫn vào bóng tối.
“Hết sảy,” Grover làu bàu. “Tôi ghét sở thú cỡ nào thì cũng ghét mấy hang hốc ngầm cỡ đó.”
Meg triệu hồi cặp kiếm, đoạn tiến vào trong. Hít sâu một hơi, Grover cũng theo bước.
Ta quay sang Crest. “Ngươi đi chung không?”
Nó lắc đầu. “Nói rồi. Tôi không phải chiến binh. Tôi sẽ ở đây canh chừng lối ra, tranh thủ luyện chơi đàn.”
“Nhưng ta có lẽ sẽ cần cây uku…”
“Tôi sẽ luyện chơi đàn,” nó khăng khăng, vung tay gảy một hợp âm treo bậc bốn.
Ta theo chân hai người bạn tiến vào bóng tối, tiếng đàn tưng tưng vẫn vọng đến từ sau lưng. Đúng kiểu nhạc nền thường thấy trước màn đại chiến đầu rơi máu chảy.
Nhiều lúc ta ghét mấy cái hợp âm treo bậc bốn ghê nơi.