Khi có tuổi một chút, tôi lại muốn quay về ngày thơ ấu với bao nhiêu ký ức vụn. Một năm mười hai tháng trải đều. Vậy là cứ đến tầm tháng Mười âm lịch, người người nhà nhà lại tất bật cho ngày tết. Nói theo dân gian: Gấp như gấp tết vậy!
Kể cũng lạ. Tháng Mười, tháng Mười Một còn thong dong một chút, chứ tháng Chạp vừa rón rén sang, coi như ngày tết đã về đến cửa. Để rồi, từ người già cho đến trẻ con, chộn rộn một niềm vui khó diễn tả. Thời điểm này các bà, các mẹ, các chị... nào là trang hoàng lại nhà cửa, nào là may vá thêu thùa, nào là “sên” bánh mứt. Cái thuở thiếu thời của tôi, giữa lúc nhà nhà tất bật chuẩn bị tết, tôi thích nhất là được mẹ cho cái chảo “sên” mứt dừa còn thừa lại chút đường cặn dậy mùi va ni... Chỉ có vậy, mà bây giờ, hơn bốn mươi tuổi, ký ức đó trong tôi vẫn tươi non như thuở nào...
Quanh đi quẩn lại những mùa tết xưa cũ, đọng trong lòng tôi vẫn mãi là muôn màu nhớ. Nhớ mẻ bột hồ anh trai tôi khuấy để dán từng tờ lịch lên vách nhà đã cũ, nhớ từng cánh hoa giấy chị tôi tỉ mỉ cắt dán đến nửa đêm dưới ánh đèn dầu leo lét, nhớ cái bàn ủi có chốt khóa bằng con gà một chân dùng từ gáo dừa đốt lên để ủi đồ mới mà mẹ tôi vừa cắt may cho cả nhà, nhớ om dưa cải dậy mùi chua được ủ từ nước cơm vo nhà làm, nhớ nồi bánh tét mà bà phân công anh em tôi canh lửa đến tận tối giao thừa... Tất cả những gam màu nhớ mà tôi vừa kể, có thể giờ đây có chút thay đổi theo nhịp sống của đô thị tác động, nhưng ít nhiều vẫn còn có thể níu giữ bằng cách này cách khác, hoặc tự nhà làm, hoặc mua... Nhưng âm vọng sâu thẳm trong tâm hồn tôi, khó có thể san lắp được, đó là nhịp quết bánh phồng ngày tết xưa của bà, thuở tôi còn nhỏ. Bây giờ, bà tôi đã về cõi khác, nhưng dư âm của bà vẫn còn vọng đều vào mỗi giấc mơ tôi những ngày giáp tết.
Không nhớ từ bao giờ, chỉ nhớ khi tự mình biết thưởng thức và cảm nhận vị ngon từ các món ăn, tôi đã bị đôi bàn tay khéo léo của bà làm cho mê hoặc. Chỉ là chút cơm thừa thôi, bà cũng có thể biến chúng thành cốm, hay một tẹo bột, thể nào lũ nhóc bọn tôi cũng có bánh cam, bánh còng để ăn. Như thế đó, bọn trẻ con nhà quê của chúng tôi lớn lên từ những món ăn dân dã mà đẫm tình yêu thương từ bà, từ mẹ.
Nói vòng vo như thế, cốt cũng chỉ để trở lại với nhịp quết bánh phồng của bà mà thôi. Muốn cho những cái bánh ngon, bà tôi cẩn thận chọn từng hạt nếp, từng ký khoai mì. Ngày đó, bà tôi chỉ quết hai loại: Bánh phồng nếp và bánh phồng mì thôi, không phải nhiều loại như các cơ sở sản xuất công nghiệp bây giờ.
Để có được những cái bánh phồng nếp ngon, bà tôi chỉ chọn loại nếp sáp hột to, có hương thơm tự nhiên, dẻo nhiều. Nếp sáp, sau khi mua về, bà ngâm trong nước vài tiếng đồng hồ cho hạt mềm, tiếp theo, nếp được vò sạch rồi cho vào chõ xôi đồ chín. Khi nếp vừa chín tới, bà tôi cho vào cối giã chung với nước cốt dừa, đường. Cái hay nhất của bà tôi ở chỗ, bà chỉ nêm nếm theo quán tính chứ không phải cân đong theo trọng lượng đường muối, vậy mà cái bánh phồng có vị đậm đà đến khó tả. Khó hơn chút là khâu quết bánh thì chỉ cần sức mạnh, khó nhất ở đây là trở bột. Vì vậy, các công đoạn khác, bà tôi có thể nhờ hoặc “phân công” nhưng khâu trở bột, phải tự bà tôi đảm nhiệm. Vì khi trở bột phải thật đều tay, nhanh và liên tục thì bột mới nhuyễn và không còn nguyên hạt nếp, bánh mới nở đều và xốp khi nướng. Khi bột đã được quết nhuyễn (hay còn gọi là giã), sẽ đến công đoạn cán bánh. Để bánh được cán đều và tròn đẹp, lại phụ thuộc vào người “bắt” bột. Người bắt bột khéo là bắt được các viên bột đều nhau về khối lượng. Bánh cán xong sẽ được phơi trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời, nếu nắng tốt, cỡ nửa ngày bánh dẻo khô, đừng quá giòn là được.
Tương tự như bánh phồng nếp, bánh phồng mì nguyên liệu chính được làm từ khoai mì (các vùng miền khác gọi là sắn). Khoai mì sống sau khi mua về sẽ được lột vỏ, rửa sạch rồi đem ngâm qua nước một đêm để tránh bị thâm đen. Đến sáng hôm sau, ta có thể đem khoai mì rửa thật sạch với nước lạnh, cắt thành từng khúc rồi cho vào nồi hấp cách thủy đến khi chín. Vì sao phải hấp? Thay vì luộc khoai mì, ta hấp để không bị nhão, khó quết. Sau khi khoai mì đã được hấp chín, ta bỏ cọng rễ ở bên trong lõi, cả phần xơ và sượng của khoai mì cũng được bỏ đi. Bước tiếp theo là cho khoai mì vào trong cối quết. Khoai mì được quết chung với hỗn hợp nước cốt dừa cùng với đường mía. Nếu cán bánh để ăn phơi khô ăn sống liền, không cần phải nướng, thì chúng ta cho thêm vào hỗn hợp ấy một ít sữa bò, lượng vừa phải, tương ứng với lượng khoai, đường, muối và nước cốt dừa đã có. Cũng giống như bánh phồng nếp, quết đến khi nào bột khoai mì thật nhuyễn và quyện vào các hỗn hợp khác thì “bắt” bột rồi đem ra cán thành những cái bánh tròn đều, không quá dày cũng không quá mỏng. Chiếc bánh sau khi được cán và phơi đặng nắng, sẽ có màu trắng ngà của nước cốt dừa, ăn sống sẽ có mùi thơm và béo ngậy của sữa. Bánh phồng mì thường được bà tôi bắt đầu làm từ khuya, để khi trời vừa hửng nắng, bánh đã được đem ra phơi, đến trưa, hơi đứng bóng một chút, là bánh đã khô, và thể nào bọn trẻ con chúng tôi cũng được bà cho ăn thử.
Suốt năm tháng ấu thơ, tôi đã lớn lên bên những điều bình dị mà thân thương đến lạ lùng như thế. Để rồi bây giờ, khi mỗi mùa giáp tết, tôi lại hoài niệm về những điều xưa cũ, về những ký ức vụn đã nuôi tôi khôn lớn thành người. Đâu đó bên hiên nhà thuở nhỏ, góc này cha tôi vót nan lọp, góc kia mẹ tôi khâu vá. Và xa hơn một chút, sau chái bếp, khói chiều quê đang nhẹ len, chị tôi đang chuẩn bị bữa cơm chiều đậm mùi kho quẹt...
Để rồi bây giờ, làm sao tôi có thể trở lại ngày xưa?
Mùa giáp tết nữa đang về... Thương làm sao nhịp quết bánh phồng mùa cũ...