“T
hứ nhất, điều thú vị là – không hề có lửa.”
“Không có lửa?” Kathryn hỏi. Cô đang đứng trước quán bar Solitude Creek, nơi này đang được cảnh sát phong tỏa để giữ nguyên hiện trường. Người đàn ông đang đứng trước mặt cô có dáng người đậm, ngoài bốn mươi tuổi, trên mặt có một vết chàm; trông nó giống như một vết bớt bẩm sinh, nhưng cô biết đó là một vết sẹo do hỏa hoạn cách đây vài năm khi anh ta mới vào nghề lính cứu hoả trước khi anh ta dập tắt được đám cháy.
Kathryn đã làm việc với Robert Holly – Chỉ huy đội cứu hỏa Quận Monterey vài lần và biết được anh ta là một người khiêm tốn, thông minh và biết điều.
Robert nói tiếp, “Thực ra, về cơ bản, thì có. Nhưng đó là lửa ở bên ngoài. Bản thân quán không hề bị cháy. Đằng kia, chỗ thùng dầu đó”.
Kathryn chú ý tới chiếc thùng phi han gỉ đó. Nó là loại thùng thường được sử dụng để đựng rác ở các bãi đỗ xe, hay đằng sau các cửa hàng và quán ăn. Ở đây nó được đặt gần hệ thống điều hòa của quán.
“Chúng tôi đã tiến hành kiểm tra sơ bộ. Có mẩu thuốc lá trong thùng, cùng với vài tấm giẻ rách thấm đẫm dầu máy và xăng. Chỉ cần có thế thôi.”
“Chất xúc tác, chắc là thế,” Kathryn nói. “Dầu và xăng.”
“Đó chính là thứ gây tác động, nhưng không có bằng chứng chỉ ra nó là do cố ý.”
“Vậy là mọi người tưởng có cháy. Ngửi thấy mùi khói.”
“Và chạy hết về phía các cửa thoát hiểm. Mà đó chính là vấn đề. Chúng đã bị chặn lại.”
“Bị khóa ư? Cửa đã bị khóa sao?”
“Không, bị chặn. Chiếc xe tải đó?”
Robert chỉ vào chiếc xe công-te-nơ lớn đậu chắn sườn phía tây của quán. Nó cũng bị cảnh sát phong toả bằng dải băng màu vàng để phục vụ điều tra. “Chiếc xe này thuộc sở hữu của một công ty ở đằng kia – Henderson Jobbing and Warehouse.” Kathryn nhìn tòa nhà một tầng ngổn ngang đó. Có năm, sáu chiếc xe tải tương tự đang đỗ ở nơi bốc xếp hàng và gần quanh đó. Vài người gồm cả nam và nữ, trong bộ đồ bảo hộ lao động, vài người khác mặc đồ vest, đứng ở khu bốc xếp hàng hay trước văn phòng nhìn sang bên này, như thể đang nhìn chằm chằm vào một con cá voi bị mắc cạn.
“Tài xế đã đỗ nó ở đó?”
“Nhưng khăng khăng anh ta không làm. Nhưng anh ta có thể nói được gì? Từng có vài sự cố khác về việc những chiếc xe tải chặn ở bãi đỗ xe của quán. Nhưng chưa bao giờ liên quan tới lối thoát hiểm.”
“Hôm nay anh ta có ở đây không?”
“Anh ta sẽ tới đây sớm thôi. Tôi đã liên hệ với anh ta lúc ở nhà. Anh ta khá hoảng. Nhưng đã đồng ý tới đây.”
“Nhưng tại sao anh ta lại đỗ ở đó? Bất kỳ ai cũng có thể nhìn thấy biển báo: ‘Cấm đỗ xe, Lối thoát hiểm’. Cho tôi biết tình hình đi. Chính xác là chuyện gì đã xảy ra?”
“Hãy vào trong đi.”
Kathryn theo chân người đàn ông lực lưỡng này đi vào trong quán. Nơi đây rõ ràng chưa được dọn dẹp lại sau vụ thảm kịch. Bàn ghế lộn xộn ở khắp nơi, cốc, chai lọ bị vỡ, các mảnh quần áo, vòng tay bị gãy, giày dép. Nhạc cụ nằm la liệt trên sân khấu. Kathryn quan sát thấy có một chiếc ghi-ta bị vỡ tan. Đó là chiếc Martin D-2822 cũ, có giá trị cộng hưởng trước đó là hai ngàn đô la Mỹ.
Có rất nhiều vết máu khô trên sàn và cả những dấu chân.
Kathryn từng tới đây nhiều lần. Mọi người ở Bán đảo này đều biết về quán Solitude Creek. Chủ quán là Sam Cohen, một người hói đầu có đeo khuyên tai và từng là dân hippie ở khu Haight-Ashbury23 (còn đâu vào đây nữa). Người này từng tham dự Nhạc hội Monterey Pop năm 1967 và tuyên bố đã thức trắng suốt ba đêm. Vì quá yêu thích buổi nhạc hội, người này đã dành những năm đầu đời của mình để quảng bá các buổi nhạc hội về rock, dù không được thành công cho lắm, sau đó từ bỏ và mở một quán bán bít tết gần Presidio. Rồi ông ta lại bán nó và tích đủ tiền để mua lại một nhà hàng hải sản bị bỏ hoang bên một nhánh sông nhỏ, đó cũng là ý tưởng để đặt tên quán như bây giờ.
Nhánh sông Solitude là một mạch nước có màu nâu xám chảy về sông Salinas gần đó. Bất kỳ con tàu nào có mớn nước không sâu hơn một mét có thể di chuyển được ở mạch sông này, đa số là những thuyền nhỏ, dù cho cũng không có nhiều thuyền bè đi qua đây.
22Martin D-28: Là một loại đàn ghi-ta acoustic dáng D, do C.F. Martin & Company ở Nazareth, Pennsylvania sản xuất. Loại đàn này được biết đến là cây đàn của những bậc thầy, thuộc series cao cấp nhất của Martin.
23Haight-Ashbur là nơi khai sinh ra phong trào văn hóa đối kháng những năm 1960, nơi này thu hút đám đông sôi động và đa dạng có nhu cầu thưởng thức bầu không khí hippie.
Quán bar nằm thu mình trong một bãi để xe rộng ở giữa nhánh sông và công ty vận tải, ở phía bắc của Quận Monterey, nằm ngoài đường Cao tốc số Một, cùng tuyến đường xuyên qua vùng bờ biển Big Sur24 hùng vĩ; khung cảnh rất khác biệt, ở khắp nơi.
“Có bao nhiêu người thiệt mạng?”
“Ba. Hai nữ, một nam. Hai trường hợp bị chèn ép ngạt thở – bị chèn tới chết. Một cô gái bị ai đó đạp lên cổ. Hàng tá người bị thương nặng. Gãy xương, xương sườn đâm vào phổi. Giống như là mọi người bị kẹt trong một cái bàn kẹp khổng lồ.”
Kathryn không thể tưởng tượng nổi được sự đau đớn, hoảng loạn và kinh hãi đó.
Robert nói, “Quán này khá đông khách, nhưng vẫn không vượt quá mức giới hạn. Chúng tôi đã kiểm tra điều này đầu tiên. Sức chứa là hai trăm người, đa số các chủ quán sẽ giả bộ tức là phải hai trăm hai mươi. Nhưng Sam luôn chú ý tới vấn đề này và chẳng dại gì mà làm sai. Mọi thứ trông đều đúng luật, tất cả tài liệu của quận – đó là những vấn đề về sự an toàn. Tôi có xem các chứng chỉ quy định về thuế và bảo hiểm theo hồ sơ ở văn phòng. Chúng cũng vẫn còn đang hiện hành. Đó là những gì mà Charles bảo cô ở đây để kiểm tra nhỉ”.
“Đúng thế. Tôi sẽ cần những bản sao.”
“Được.” Robert nói tiếp, “Tháng vừa rồi thanh tra cứu hỏa đã xác nhận là đạt tiêu chuẩn, cách đây vài ngày công ty bảo hiểm của Sam đã thanh tra nơi này và đánh giá A cộng về bình chữa cháy, vòi phun nước, đèn, báo động và lối thoát hiểm”.
Có điều lối thoát hiểm không mở được.
“Vậy là nơi này đông khách, nhưng làm ăn lương thiện.”
24Big Sur: Bờ biển Big Sur nằm ở vùng duyên hải miền trung California, giữa cao nguyên Carmel và San Simeon. Đây được biết tới là đường bờ biển dài nhất và hoang sơ nhất ở vùng tiếp giáp Mỹ.
“Đúng thế,” Robert nói. “Ngay sau khi buổi biểu diễn bắt đầu – là khoảng hơn tám giờ một chút – lửa bùng phát ở thùng phi dầu. Khói xộc vào hệ thống HVAC25 và lan ra toàn bộ bên trong quán. Mặc dù mùi không nồng nặc nhưng cô có thể ngửi thấy được. Cô biết đấy, là mùi khói gỗ và dầu, nó thực sự đáng sợ. Mọi người lao về phía các cửa gần nhất – tất nhiên, chủ yếu là các cửa thoát hiểm dọc bên tường phía đông. Cửa chỉ mở được một chút – cô có thể thấy chiếc xe tải chỉ cách một khoảng chưa được nửa mét, vì vậy không ai có thể lách qua. Tệ hơn là một vài người vẫn cố lách qua khe hở, nhưng cánh tay lại bị mắc kẹt và… cả đám đông ùn ùn dồn lên. Ba hay bốn cánh tay và vai bị gãy. Hai cánh tay phải cắt cụt đi.” Giọng của Robert trở nên ngắt quãng. “Và, có một thiếu nữ này, tầm mười chín tuổi với cánh tay gần như bị rách toạc ra.” Robert đang nhìn xuống. “Nghe nói cô bé đang theo học piano cổ điển. Rất tài năng. Chúa ơi.”.
“Chuyện gì đã xảy ra khi họ thấy cửa không mở được?”
“Mọi người ở phía trước bị ép sát vào cánh cửa, la hét cố bảo những người phía sau quay lại. Nhưng không ai nghe được gì. Hoặc nếu có thì họ cũng chẳng nghe theo. Hoảng loạn. Hoảng loạn thực sự. Họ lẽ ra nên quay lại những cửa thoát hiểm khác ở đằng trước, hay cửa chỗ sân khấu. Thậm chí, nhà bếp cũng có một cửa hai cánh. Nhưng vì lý do nào đó mà tất cả đều chạy về phía cửa thoát hiểm, những cánh cửa đã bị chặn. Tôi đoán là họ nhìn thấy những biển báo lối thoát hiểm và cứ nhằm hướng đó.”
“Không có nhiều khói, như anh nói. Nhưng tầm nhìn thì sao?”
“Ai đó đã bật đèn sáng và mọi người có thể nhìn rõ mọi thứ.”
Sam Cohen xuất hiện ở cửa ra vào. Ông ta khoảng sáu mươi tuổi, mặc một chiếc quần bò cũ bẩn với một chiếc áo lao động màu xanh nước biển bị rách. Mái tóc xoăn xám lưa thưa của ông ta trông bù xù, Kathryn đoán chắc đêm qua ông ta đã mất ngủ. Ông Sam đi vào quán một cách chậm rãi, nhặt từng món đồ nằm trên sàn lên, đặt chúng vào một chiếc thùng các-tông méo mó.
25HVAC: là viết tắt của cụm từ Heating, Ventilation and Air conditioning, nghĩa là hệ thống Nhiệt, Thông gió và Điều hòa không khí.
“Ông Cohen.”
Người chủ quán Solitude Creek bước xiêu vẹo về phía Kathryn và Robert. Mắt ông ta đỏ hoe: ông ta đã khóc. Ông ta bước lên, nhìn thấy một đốm máu trên sàn; trớ trêu thay, nó có hình một trái tim.
“Tôi là Kathryn Dance, đến từ Cục Điều tra.”
Ông Sam nhìn tấm thẻ ID mà không thực sự thấy nó. Cô hạ thẻ xuống và cất đi. Ông như tự nói với chính mình, “Tôi vừa gọi lại cho bệnh viện. Có ba người đã được ra viện. Có bốn người trong số những người bị thương nghiêm trọng vẫn không có tiến triển. Một người đang trong tình trạng hôn mê. Họ có lẽ sẽ vẫn sống. Nhưng bệnh viện và các bác sĩ không cho biết thêm gì nhiều. Y tá thì chẳng bao giờ nói gì. Tại sao lại có một quy định như thế? Nó chả có nghĩa lý gì”.
“Tôi có thể hỏi ông một vài điều được không, ông Cohen?”
“Cục Điều tra à? FBI ư?”
“California.”
“Ồ. Cô đã nói rồi. Có phải chuyện này… ý tôi là, nó là một tội phạm không?”
Robert nói, “Chúng tôi vẫn đang tiến hành điều tra sơ bộ, ông Sam ạ”.
Kathryn nói, “Tôi không phải là điều tra viên về hình sự. Tôi ở Phòng Dân sự”.
Ông Sam nhìn quanh, thở một cách nặng nề. Đôi vai của ông ta chùng xuống. “Mọi thứ…”, ông ta khẽ nói.
Kathryn không thể biết ông ta định nói gì. Trước mắt cô là một khuôn mặt vô cùng buồn thảm. “Ông có thể nói cho tôi những gì mà ông nhớ được về tối qua không?” Cô hỏi điều này một cách máy móc. Sau đó, cô sực nhớ ra chỉ huy đội cứu hỏa mới là người phụ trách, “Như vậy được chứ, Bob?”.
“Cô có thể hỗ trợ tôi bất kỳ lúc nào cô muốn, Kathryn ạ.”
Cô phân vân tại sao mình lại hỏi những câu này. Đây không phải việc của cô. Nhưng đôi khi đúng là tự lấy dây buộc mình.
Ông Sam không trả lời.
“Ông Cohen?” Dance nhắc lại câu hỏi.
“Xin lỗi cô.” Ông ta khẽ nói. “Tôi đang đứng ở cửa chính, kiểm tra các hóa đơn. Tôi nghe thấy tiếng nhạc mở màn. Tôi ngửi thấy mùi khói, khá nồng, và tôi thấy hoảng. Ban nhạc dừng chơi giữa bài. Ngay lúc đó tôi có điện thoại. Ai đó gọi từ bãi đỗ xe và nói là có cháy trong nhà bếp. Hay là phía sau sân khấu. Họ không chắc chắn. Họ hẳn đã nhìn thấy khói và nghĩ nó còn nghiêm trọng hơn thế. Tôi cũng không kiểm tra lại. Tôi chỉ nghĩ cách để mọi người ra ngoài hết. Vì thế, tôi đã phát ra một thông báo. Sau đấy, tôi nghe thấy nhiều tiếng nói, mỗi lúc một lớn. Rồi tiếng la hét. Tôi còn ngửi thấy mùi khói nồng nặc hơn. Tôi nghĩ, không, không, không phải có cháy. Tôi đã nghĩ về vụ nhà ga ở Đảo Rhode vài năm trước. Họ tổ chức bắn pháo hoa bất hợp pháp. Nhưng trong khoảng sáu phút, toàn bộ chỗ đó đã bị nhấn chìm trong biển lửa. Cả trăm người thiệt mạng.”
Nghẹn ngào. Những giọt nước mắt. “Tôi đi vào quán. Tôi không thể tin điều đó. Tôi không thể tin vào mắt mình. Mọi người dường như không còn là con người nữa – giống như một sinh vật to lớn, đi lảo đảo xung quanh, chen lấn nhau hướng về phía các cánh cửa. Nhưng các cánh cửa đó đều bị đóng. Và không hề có lửa. Ở bất cứ đâu. Thậm chí khói cũng không đặc lắm. Giống như vào mùa thu, khi tôi còn nhỏ, mọi người đốt lá. Ở nơi tôi lớn lên. New York.”
Kathryn nhận ra một chiếc camera an ninh. “Có đoạn băng ghi hình nào không? Băng ghi hình an ninh có không?”.
“Bên ngoài thì không. Bên trong thì có một chiếc camera.”
“Tôi có thể xem nó được không?”
Đây là bệnh nghề nghiệp của cô khi ở phòng Hình sự.
Đôi khi đúng là tự lấy dây buộc mình…
Ông Sam nhìn quanh lần cuối và bước tới phía hành lang, lấy một cái thùng đựng đồ của những người sống sót mà ông ta lượm được. Ông ta cầm nó một cách thận trọng, như thể nếu giữ chặt quá thì những người chủ của các món đồ này đang ở trong viện sẽ không gặp may. Kathryn nhìn thấy ví, chìa khóa, giày dép và một tấm danh thiếp trong đống đồ ông ta đang cầm.
Kathryn đi theo, tiếp sau là Robert. Văn phòng của Sam có trang trí nhiều tấm hình áp-phích về những màn biểu diễn của những nghệ sĩ vô danh – và nhiều tấm chụp về Nhạc hội Monterey Pop. Căn phòng trông lộn xộn với những đồ tạp nham của một địa điểm giải trí nhỏ: các thùng bia, chồng hóa đơn, quà lưu niệm (áo phông, mũ cao bồi, giày cao cổ, một con rắn chuông nhồi bông, hàng tá cốc do các đài phát thanh tặng). Quá nhiều đồ. Sự tích lũy này khiến Kathryn phải kinh ngạc.
Ông Sam đi về phía bàn máy tính và ngồi xuống. Ông ta nhìn chằm chằm vào bàn một lúc, có một mẩu giấy; Kathryn không thể nhìn được trên đó viết gì. Cô đứng trước màn hình máy tính. Người cô cứng đơ. Khi cô là điều tra viên của CBI, nhiệm vụ của cô đa số là ở hậu trường. Cô nói chuyện với nghi phạm sau khi những việc cần thiết đã hoàn tất. Cô hiếm khi ở hiện trường và chẳng bao giờ tác chiến. Ừ thì, một người có thể phân tích tư thế của một xác chết và đưa ra những ý kiến về mặt pháp y, nhưng Kathryn thì hiếm khi được yêu cầu làm như vậy. Hầu hết nhiệm vụ của cô đều liên quan tới người sống. Cô phân vân phản ứng của mình đối với đoạn video sẽ là gì.
Nó không ổn.
Cuốn băng có chất lượng bình thường nhưng một cái cột che mất một phần hình ảnh. Kathryn tua lại đoạn ghi hình vì nghĩ rằng nó hẳn đã bị di chuyển nhưng rõ ràng không phải. Ban đầu, cô nhìn ở góc rộng về phía những cái bàn, ghế và các vị khách, người phục vụ đang bưng bê. Sau đó, ánh sáng mờ dần, nhưng vẫn đủ sáng để nhìn rõ căn phòng.
Không có âm thanh nào và Kathryn biết ơn vì điều đó.
Vào lúc 8 giờ 11 phút 11 giây trên băng ghi hình, mọi người bắt đầu di chuyển. Đứng lên, nhìn xung quanh và lôi điện thoại ra. Lúc đó, thực tế đa số khách đều lo lắng, nhưng những biểu cảm trên mặt và ngôn ngữ cơ thể của họ chỉ có thế. Không hoảng hốt.
Tuy nhiên lúc 8 giờ 11 phút 17 giây, mọi thứ đã thay đổi. Chỉ trong khoảng sáu giây. Như thể tất cả mọi người được lập trình sẵn để hành động cùng một lúc. Những người khách dồn dập lao về phía các cánh cửa. Kathryn không thể nhìn thấy các lối thoát hiểm: chúng bị khuất đằng sau camera, ngoài khung hình. Nhưng cô có thể nhìn thấy mọi người đang va đập vào nhau và vào tường, bằng mọi cách thoát khỏi số phận bị chết cháy. Họ đẩy nhau càng lúc càng mạnh, trong một khối xoắn giống như hình ảnh quay chậm của một cơn lốc. Dance hiểu rằng: những người ở phía trước đang vật lộn di chuyển theo chiều kim đồng hồ để thoát khỏi những người ở đằng sau họ. Nhưng chẳng có chỗ nào để đi.
“Chúa ơi,” Bob Holly, người chỉ huy nói khẽ.
Sau đó, trước sự sửng sốt của Kathryn, sự điên cuồng này kết thúc nhanh chóng. Cứ như là sự tỉnh táo quay trở lại và lời nguyền bị xóa bỏ. Đám đông rã ra và các vị khách có thể tới được các lối thoát hiểm – Đó là ở hành lang phía trước, sân khấu và nhà bếp.
Có hai người trên sàn nhà, mọi người túm tụm lại xung quanh hai người này, cố gắng cứu sống họ một cách vô vọng. Thực tế là gần như không thể sử dụng biện pháp CPR26 để cứu sống ai đó khi mà ngực của người đó đã bị dập, tim và phổi bị đâm.
Kathryn để ý tới thời gian ghi trên băng hình.
8 giờ 18 phút 29 giây.
Bảy phút. Từ lúc bắt đầu tới khi kết thúc. Từ sự sống tới cái chết.
Sau đó, một dáng người loạng choạng trở lại vào khung hình.
“Là cô bé đó,” Bob Holly khẽ nói. “Sinh viên thanh nhạc”.
Một thiếu nữ trẻ có mái tóc vàng và mang một nét đẹp rất đặc biệt. Cô ấy đang ôm chặt cánh tay phải chỉ còn tới phần khuỷu của mình. Cô ấy loạng choạng bước tới một trong những cánh cửa đang mở, có lẽ là để tìm phần cánh tay đã bị đứt. Vào trong khung hình được khoảng ba mét, cô ấy ngã khuỵu xuống. Hai người chạy tới, người đàn ông rút thắt lưng của ông ta ra và họ cùng nhau tìm cách cầm máu tạm thời cho cô ấy.
Không nói một lời nào, ông Sam đứng lên và đi trở lại phía cửa văn phòng. Ông ta dừng lại ở đó. Nhìn ra nơi đổ vỡ, lộn xộn kia, nhận ra mình đang cầm một chiếc điện thoại Hello Kitty, rồi ông ta đút nó vào túi quần. Ông Sam lên tiếng, không nhằm vào ai, “Nó đã kết thúc. Cuộc đời tôi đã chấm hết. Hết thật rồi. Mọi thứ… Sẽ chẳng thể nào khôi phục lại được từ đống đổ nát này nữa. Chẳng bao giờ”.
26CPR: là cụm viết từ viết tắt của Cardiopulmonary Resuscitation – Hồi sức tim phổi. Đây là tổ hợp các thao tác cấp cứu bao gồm ấn lồng ngực và hô hấp nhân tạo với mục đích đẩy lượng máu giàu oxy tới não, đưa bệnh nhân thoát khỏi tình trạng nguy kịch.