R
a khỏi quán, Kathryn cất những bản sao giấy tờ thuế và bảo hiểm vào túi xách, hoàn thành một cách hiệu quả nhiệm vụ của cô ở đó.
Đã tới lúc phải rời đi. Trở lại văn phòng.
Nhưng cô chọn ở lại.
Tự buộc mình…
Kathryn Dance quyết định ở lại Solitude Creek và tự đặt một vài câu hỏi cho riêng cô.
Cô đã gặp hơn ba chục người xung quanh đó, khoảng một nửa trong số họ là khách hàng của quán tối hôm qua. Họ quay lại để đặt hoa và thiệp. Và để có những câu trả lời. Hầu hết họ hỏi cô nhiều hơn là cô hỏi họ.
“Làm sao chuyện quái quỷ này có thể xảy ra?”
“Khói bắt nguồn từ đâu?”
“Nó là một vụ khủng bố à?”
“Ai đã đỗ chiếc xe tải ở đó?”
“Đã có kẻ nào bị bắt chưa?”
Một vài người trong số đó tỏ ra cáu kỉnh, nghi ngờ. Số khác thì chống đối.
Như thường lệ, Kathryn từ chối trả lời bằng cách nói rằng vụ việc đang được điều tra. Nhưng nhóm này – những người thoát nạn và người thân chứ không chỉ đơn thuần là những người tò mò – lại có vẻ không hề hài lòng với lời nói của cô. Một người phụ nữ tóc vàng, có miếng băng trên mặt, nói rằng vị hôn phu của mình đang trong tình trạng nguy kịch. “Cô có biết anh ấy bị thương ở đâu không? Phần hạ bộ. Ai đó đã giẫm lên người anh ấy để cố gắng thoát ra ngoài. Bác sĩ nói rằng giờ chúng tôi có thể sẽ không bao giờ có con được!”
Kathryn chia sẻ sự đồng cảm chân thành và hỏi người phụ nữ này một vài câu hỏi. Nhưng cô ấy không có tâm trạng để trả lời.
Cô để ý thấy hai gã đàn ông – một người da trắng, một người Latinh mặc đồ vest đang lởn vởn quanh đó. Mỗi gã đang nói chuyện với mọi người bằng những ngôn ngữ tương ứng và phát những tấm danh thiếp. Và cô chẳng thể làm gì cả. Tu chính án thứ Nhất – nếu đó là luật về quyền được bảo vệ của những tên luật sư cặn bã muốn lôi kéo khách hàng. Kathryn nhìn chằm chằm vào tên da trắng mũm mĩm trong bộ đồ vest bụi bặm; và gã đáp trả lại với một nụ cười ranh ma. Như thể gã vừa giơ ngón tay giữa về phía cô.
Mọi thứ mà những người quay lại đây nói với cô cũng giống với những gì cô được biết từ Robert và ông Sam. Nó vẫn là cùng một câu chuyện từ những góc nhìn khác nhau, về việc một nhóm người bị sốc đột ngột khi đang thưởng thức buổi biểu diễn âm nhạc và đột nhiên trở thành những con thú hoang, tâm trí bị sự hoảng loạn bao trùm.
Kathryn kiểm tra chiếc thùng phi nơi ngọn lửa bắt đầu. Chiếc thùng nằm cách mặt sau của quán tầm sáu mét, gần hệ thống điều hòa. Bên trong thùng, như Robert đã miêu tả, có tro và một ít rác đang cháy dở.
Sau đó, cô trở lại điểm mấu chốt của cuộc điều tra: chiếc xe tải chắn ở cửa. Buồng lái của xe màu đỏ, hiệu Peterbilt kiểu cũ, nhìn méo mó và có những nốt ố màu trắng, vàng và xanh. Phần toa moóc dài khoảng chín mét cùng với đầu máy kéo, đã chặn cả ba cửa thoát hiểm. Phía chắn bùn đằng trước bên phải chỉ cách tường quán Solitude Creek chưa tới ba xăng ti mét; phần phanh sau bên phải ở cuối của chiếc xe cách khoảng hai mươi lăm xăng ti mét. Ở góc này, cửa có thể mở ra được một chút, nhưng không đủ để một người chui ra. Kathryn thấy những đốm máu trên sàn cạnh một cửa. Có lẽ đó là nơi mà cánh tay của cô thiếu nữ đã bị đứt ra.
Cô cố để hiểu làm thế nào mà chiếc xe tải lại đỗ ở đó. Quán bar và nhà kho kia cùng chung một bãi đỗ xe, nhưng biển báo đã đánh dấu rõ ràng khu vực nào dành cho khách của quán Solitude Creek và nơi nào dành cho xe tải và xe của nhân viên công ty Henderson Jobbing. Các biển báo màu đỏ cảnh báo về việc “chủ sở hữu phải tự chịu chi phí kéo xe đi” dường như chỉ là một mối đe dọa thờ ơ, mờ nhạt và rỉ sét.
Không, việc tài xế đỗ xe tải ở đó thật chẳng hợp lý chút nào. Vẫn còn hơn phân nửa chỗ đỗ dành cho đầu kéo và toa moóc của bên đó; vẫn còn nhiều chỗ trống để cho tài xế đỗ chiếc xe đó ở bất kỳ đâu trong bãi xe phía họ. Tại sao lại là ở đây?
Nhiều khả năng chiếc xe đó đã lăn bánh và dừng ở đây. Nhà kho nằm ở phía nam của quán bar, nơi có vị trí cao hơn và khoảng sân hơi dốc xuống vị trí quán bar, nơi có vị trí thấp hơn. Chiếc xe trọng tải lớn này đã trôi dọc theo bờ tường của quán và chậm lại dần.
Kathryn đang bước về phía nhà kho, cách quán khoảng ba mươi mét. Ở cửa văn phòng nhà kho có treo tấm biển tự làm: “Đóng cửa”. Những người cô nhìn thấy lúc trước giờ đã không còn ở đó.
Cô nắm lấy tay nắm cửa và kéo. Cửa bị khóa – nhưng đèn bên trong vẫn có thể nhìn thấy được qua một vết nứt trên cửa sổ, và cô có thể nhìn thấy sự chuyển động.
Một tiếng đập lớn vang lên trên kính. “Cục Điều tra đây. Vui lòng mở cửa”.
Không có động tĩnh gì.
Một tiếng đập nữa, mạnh hơn.
Có bóng di chuyển sang một bên; một người đàn ông trung niên có mái tóc nâu không vào nếp nhìn chằm chằm vào cô. Ánh mắt ông ta lướt qua thẻ của cô rồi cho cô vào.
Hành lang trông đúng như những gì ta hình dung ở một công ty vận tải quy mô vừa nằm kề bên một đoạn đường cao tốc thứ cấp. Đầy vết trầy xước, hữu dụng, và chất đầy thùng hàng của công ty Sears và đồ nội thất văn phòng của Office Depot, màu đen, mạ crôm và màu xám. Trên các bảng kế hoạch có gắn những quy định của chính phủ. Rất nhiều giấy tờ. Nổi bật nhất là mùi dầu diesel hay mùi dầu mỡ.
Kathryn giới thiệu bản thân. Người đàn ông, Henderson, là chủ nơi này. Có một người phụ nữ, có vẻ là trợ lý hoặc thư ký, và hai người đàn ông nữa mặc quần áo lao động, đang nhìn cô một cách khó chịu. Người lái chiếc xe tải là ai trong số hai người này?
Cô hỏi, nhưng được báo là không phải, Billy vẫn chưa tới. Cô hỏi thêm rằng khi vụ việc xảy ra, nhà kho có đang mở cửa không.
Người chủ nhanh chóng đáp, “Chúng tôi có quy định. Cô có thể xem chúng ở đằng kia”.
Có một tấm bảng trên tường gần đó, với cách viết hoa khó hiểu của văn hóa doanh nghiệp:
Nhớ mang theo Hộ chiếu cho những hành trình Quốc tế!
Quy định mà ông ta nhắc tới nằm ở dòng trên dưới:
Kéo Phanh và Gạt cần số!
Những người thẩm vấn luôn cảnh giác với những đối tượng vội vàng đưa ra câu trả lời khi còn chưa được hỏi đến. Không có gì giải thích được điều đang diễn ra ở trong đầu họ rõ ràng hơn thế.
Cô xem xét vấn đề về những cái phanh và hộp số trong giây lát. “Vâng, nhưng còn về giờ giấc thì sao?”.
“Chúng tôi đóng cửa lúc năm giờ chiều. Chúng tôi mở cửa từ bảy giờ sáng tới năm giờ chiều.”
“Nhưng những chiếc xe tải thì tới muộn hơn đúng không? Đôi lúc?”
“Chiếc xe đó đã tới đây lúc bảy giờ.” Người đàn ông nhìn vào tờ giấy, dĩ nhiên là thứ mà ông ta đã tìm và ghi nhớ ngay phút giây ông ta nghe được về vụ thảm kịch. “Bảy giờ mười. Thùng hàng rỗng từ Fresno”.
“Và người tài xế vẫn đỗ ở chỗ thường ngày?”
“Bất cứ chỗ nào còn trống,” người công nhân xen vào. “Trên đỉnh của quả đồi này.” Anh ta có nét hao hao với Henderson. Kathryn đoán đó có thể là cháu hay con trai. Anh ta có đề cập tới độ dốc. Họ đã thảo luận về việc người tài xế giơ đầu chịu báng, và đã lên kế hoạch về việc xét xử công khai anh ta.
“Liệu có phải tài xế đã cố ý đỗ chiếc xe ở bên cạnh quán không?” Kathryn hỏi.
Điều này khiến họ mất cảnh giác. “Ồ không. Điều đó thật vô lý.” Sự do dự cho cô biết rằng họ ước mình đã nghĩ về tình huống này. Nhưng họ đã quyết định bán đứng người tài xế bằng cách ám chỉ rằng anh ta đã không cài phanh.
Đỉnh đồi…
Người đàn ông thứ ba, trông đô con với bàn tay lấm bẩn, nhận ra tín hiệu của mình. “Những chiếc xe này rất nặng. Nhưng chúng cũng có thể bị trôi đi.” Kathryn hỏi, “Chiếc xe đã đỗ ở đâu trước khi nó dừng lại bên cạnh quán?”.
“Một trong những điểm đỗ,” Henderson Lite chỉ.
“Ai chả biết, nhưng cụ thể là chỗ nào vậy?”.
“Tôi có cần gọi luật sư không?” Người chủ hỏi.
“Tôi chỉ đang cố gắng tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Đây không phải là một cuộc điều tra tội phạm.” Và cô nói thêm, vì biết mình nên làm thế: “Ở thời điểm này”.
“Tôi có cần phải nói chuyện với cô không?” Ông Henderson hỏi Kathryn – người chỉ có nhiệm vụ đi xác minh chứng từ thuế và bảo hiểm.
Cô đáp một cách bình tĩnh, như thể quan tâm tới ông ta, “Sẽ tốt hơn nếu ông chịu hợp tác”.
Ông Henderson nhún vai đầy toan tính, rồi dẫn cô ra bên ngoài. Và rồi, ông ta chỉ vào một điểm đỗ xe mà không có gì đáng ngạc nhiên, chính là điểm hướng thẳng lên đồi từ quán bar. Chiếc xe tải dường như đã trôi một đường thẳng đứng tới nơi mà nó dừng lại. Một miếng vát nhỏ nhựa đường lý giải về góc độ của chiếc xe đối với tòa nhà: nó đã đi lệch một chút sang bên trái.
Ông Henderson nói: “Vì thế mà chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra”.
Có nghĩa là: Tóm tên lái xe. Kệ cha anh ta. Đó là lỗi của anh ta, không phải của chúng tôi. Chúng tôi đã ghi rõ nội quy.
Kathryn nhìn quanh. “Quy trình là như thế nào? Tài xế tới sau giờ làm, anh ta để chìa khóa ở đâu đó hay giữ nó?”.
“Để nó ở kia.” Ông Henderson chỉ vào một chiếc hộp.
Một chiếc xe bán tải tiến vào bãi, tới gần chỗ họ và hú còi rồi dừng ở gần đó. Một người đàn ông mảnh khảnh, khoảng ba lăm tuổi, mặc quần bò và áo thun có in chữ AC/DC ở mặt trước, bước ra khỏi xe. Anh ta khoác lên người chiếc áo da, vuốt thẳng mái tóc vàng óng, hơi tua rua ở đuôi tóc. Khuôn mặt anh ta hiện rõ nếp nhăn quanh miệng, lông mày lúc nào cũng nhíu cả lại. Da anh ta thuộc loại da trắng, nhưng rám nắng.
“Đây rồi,” Henderson lên tiếng, “cậu ta đây rồi”.
Người đàn ông ngượng ngùng đi về phía ông chủ của mình. “Ông Henderson.”
“Billy,” người chủ lên tiếng. “Đây là…”
“Tôi là Kathryn Dance, đến từ CBI.” Dance cũng giơ thẻ của mình lên.
“Billy Culp,” người đàn ông trẻ nói một cách lơ đãng, nhìn chằm chằm vào thẻ của cô. Mắt anh ta mở to, giống như nhìn thấy cánh cửa dẫn tới nhà tù đang rộng mở.
Cô dẫn anh ta ra chỗ khác.
Người chủ thở dài, kéo thắt lưng lên, giữ một chút, sau đó đi vào bên trong. Người họ hàng của ông ta cũng đi cùng luôn.
“Anh có thể nói cho tôi biết về việc đỗ chiếc xe tải ở đây đêm qua không?”
Đôi mắt của người đàn ông trẻ chuyển hướng sang phía quán bar. “Tôi quay lại đây vào sáng nay để giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng mình có thể làm gì đó. Nhưng chẳng có gì.” Một nụ cười yếu ớt, một nụ cười trống rỗng. “Tôi đã muốn giúp.”
“Anh Culp?”
“Vâng, vâng. Tôi có một chuyến đến Fresno, vào bãi khoảng bảy giờ. Thùng hàng trống không. Đỗ ở đó. Tầm bảy giờ mười. Khó mà nhìn rõ được vì sơn của đồng hồ hầu như đã bị mờ hết. Tôi ghi lại số công tơ mét và lượng dầu máy vào sổ của mình và đút nó qua khe cửa, để chìa khóa vào hộp đằng kia. Hãy gọi tôi là ‘Billy’. Nghe ‘Ông Culp’ làm tôi nghĩ phải đi tìm bố mình”.
Kathryn mỉm cười. “Anh đã đỗ xe ở đó, gạt phanh và về số hết rồi”.
“Tôi luôn luôn làm như vậy, thưa sếp. Phanh và về số.” Sau đó, anh ta nuốt nước bọt và nói: “Nhưng, thực tế là tôi đã rất mệt. Tôi thừa nhận. Mệt nhoài. Từ Bakersfield qua Fresno và về đây”. Giọng của anh ta không đều. Anh ta đang nghĩ đến việc thú nhận tất cả. “Tôi khá chắc rằng tôi đã làm đúng quy trình. Nhưng để thề một trăm phần trăm ư? Tôi không biết nữa”.
“Cảm ơn sự thật thà của anh, Billy.”
Anh ta thở dài. “Dù sao đi nữa thì tôi cũng sẽ mất việc. Liệu tôi có bị đi tù không?”.
“Thời điểm này chúng tôi chỉ đang điều tra.” Anh ta đeo một chiếc nhẫn cưới. Cô đoán là anh ta cũng đã có con. Anh ta ở tầm tuổi ổn định cuộc sống. “Anh có từng quên bao giờ không? Hộp số hay phanh?”.
“Từng quên khoá xe một lần. Tôi đã mất chiếc CB27. Chiếc máy bộ đàm của tôi, cô biết đấy. Nhưng không.” Anh ta lắc đầu. “Tôi luôn kéo phanh. Tôi còn chẳng bao giờ lái xe riêng khi đã uống bia. Không vượt đèn vàng. Tôi không thực sự lanh lợi và cũng chẳng có tài cán gì. Nhưng tôi là một tài xế gương mẫu, Cảnh sát Dance ạ. Không bị lập biên bản, không gây tai nạn.” Anh ta nhún vai. “Nhưng, sự thật đúng là hôm qua tôi đã rất mệt, thưa sếp. Thưa sĩ quan.”
“Chúa ơi, coi chừng!” Ông Henderson hét lên, gọi vọng ra từ cửa văn phòng đang mở.
27CB: là từ viết tắt của Citizens band – một loại máy bộ đàm dùng để liên hệ giữa các cá nhân trong dải tần 27 MHz (11m).
Billy và Kathryn quay lại nhìn và cúi xuống khi có thứ gì đó vụt qua đầu họ. Hòn đá nảy trên mặt đường nhựa và đập mạnh vào lốp của một chiếc xe tải khác.
“Thằng khốn!”, người đàn ông đã ném vật đó hét lên.
Một nhóm tầm hơn chục người – đa số là đàn ông – đang đi lên con dốc từ phía của quán bar. Một người khác tiếp tục ném đá. Kathryn và Billy né qua một bên. Cú ném vẫn còn ở xa, nhưng nếu trúng phải thì cũng bể đầu. Cô rất ngạc nhiên khi thấy những người này ăn mặc lịch sự, có lẽ là tầng lớp trung lưu. Không phải những người đi xe máy hay côn đồ. Nhưng ánh mắt của họ thì thật đáng sợ: họ đang đòi nợ máu phải trả bằng máu.
“Bắt lấy hắn!”
“Thằng khốn!”
“Mày là thằng lái xe chết tiệt đó, phải không?”
“Nhìn kìa! Ở đằng kia kìa! Là tên lái xe đó!”
“Cảnh sát đây,” Kathryn lên tiếng, giơ thẻ của mình lên mà không bận tâm xác thực cụ thể. “Dừng lại ngay”.
Không ai thèm mảy may chú ý tới cô.
“Mày là đồ cặn bã! Tên giết người.”
“Không,” giọng Billy nghẹn ngào. “Tôi không hề làm gì cả”.
Đột nhiên nhóm người này thu hút thêm những người khác đang sải bước nhanh từ khu nhà tưởng niệm gần quán bar. Một số bắt đầu chạy. Chỉ trỏ. Bây giờ, số người đã lên tới khoảng hai chục. Những khuôn mặt đỏ lên vì tức giận và la hét. Kathryn lấy điện thoại ra và gọi 911. Phải mất một lúc mới kết nối được.
Cô nghe thấy: “Cảnh sát và cứu hỏa đây...”.
Kathryn há miệng kinh ngạc khi có một cái vành lốp sắt xoắn ốc lao thẳng vào mặt cô.