D
iego thật sự lo cho thương thế Jaime rồi đấy.
Chẳng tài nào biết được hai anh em đã bị giam trong nhà ngục dưới Gard này bao lâu. Họ chỉ nghe được mấy tiếng rì rầm truyền tới từ các phòng giam khác. Bức tường dày xung quanh cố tình chặn hết âm thanh để các tù nhân không thể liên lạc với nhau. Họ cũng không thấy mặt Zara thêm lần nào. Kẻ duy nhất đến thăm ngục chỉ có đám lính đưa cơm.
Đôi khi Diego lại cầu xin đám lính, những kẻ mặc trang phục vàng lam của Vệ Quân Gard, hãy cho anh một thanh stele hay thuốc men gì đó để chữa trị cho em mình, nhưng chúng lúc nào cũng giả điếc không nghe. Con cáo già Dearborn nhất định đã mua chuộc hết Vệ Quân về phe Kiêu Binh rồi.
Jaime lăn qua trở lại trên cái ổ làm bằng quần áo với rơm rạ. Diego đã góp luôn cái áo len của mình, giờ phải ngồi co ro vì lạnh trong chiếc áo thun mỏng. Thế nhưng anh vẫn ước làm được gì hơn nữa. Mặt Jaime đỏ bừng, da thịt căng cứng trong cơn sốt.
“Em thề là tối qua đã thấy cô ấy,” nó lẩm bẩm.
“Ai cơ?” Diego hỏi. Anh ngồi dựa lưng vào bức tường đá lạnh, ngay bên cạnh Jaime phòng khi em mình có cần gì. “Zara à?”
Mắt Jaime nhắm nghiền.
“Quan Chấp Chính. Cô ấy mặc áo chùng. Cô ấy nhìn em rồi lắc đầu. Kiểu như nghĩ em không nên bị nhốt ở đây ấy.”
Đúng là vậy mà. Em chỉ mới có mười bảy. Diego đã cố hết sức để lau người cho Jaime sau khi Zara quẳng nó vào đây. Mấy vết thương không đến nỗi sâu, tay gãy hai ngón, nhưng cái vết cắt trên vai lại rất nặng. Qua mấy ngày vết thương đó đã bắt đầu sưng phù, đỏ tấy lên. Càng nhìn Diego lại càng điên cuồng trong bất lực. Thợ Săn Bóng Tối không chết vì nhiễm trùng. Hoặc là được chữ iratze chữa trị, hoặc là chết trên chiến trường, ra đi trong ánh vinh quang. Không phải như thế này, chết vì một cơn sốt trên một cái giường làm bằng giẻ rách.
Jaime nhếch môi cười một nụ cười thường trực. “Không cần tội nghiệp cho em đâu. Anh mới là người khổ nhất. Em được tung tăng khắp thế giới với Vĩnh Hằng Bảo Khí. Còn anh thì phải tình tự với Zara.”
“Jaime…”
Jaime ho khan một tiếng. “Mong là anh có giở mấy chiêu tán gái trứ danh của mình, kiểu như thắng được mấy con thú bông to đùng trong hội chợ cho cô ta ấy.”
“Jaime à, nghiêm túc giùm anh đi.”
Đôi mắt đen của Jaime mở to. “Ước nguyện cuối cùng của em là chúng ta đừng có nghiêm túc nữa.”
Diego ngồi thẳng lên, giận dữ nói, “Em không chết được đâu! Chúng ta cần phải tính chuyện của Cristina.”
Jaime nghe thế liền nghiêm chỉnh lại. Nó chật vật ngồi lên. “Em nghĩ tới Cristina suốt đây. Zara không biết bạn ấy đang giữ Vĩnh Hằng Bảo Khí, món bảo vật gia truyền của nhà ta. Cũng chẳng có lý do gì để cô ả biết được đâu.”
“Hay là ta tìm cách nào đó để cảnh báo Cristina. Bảo cô ấy vứt món bảo vật đi… hoặc đưa cho ai đó khác… Vậy thì cô ấy mới biết đường mà liệu trước.”
“Không.” Mắt Jaime long lanh trong cơn sốt. “Tuyệt đối không. Ta mà cho Zara biết Cristina đang giữ món bảo vật, cô ả cũng sẽ tra khảo Cristina giống như em. Cho dù cái món bảo vật có bị quẳng xuống tận đáy biển Zara cũng chẳng quan tâm, cô ả vẫn sẽ tra khảo Cristina tới chừng nào bạn ấy chịu khai mới thôi. Tuyệt đối không thể để Zara biết ai đang giữ nó.”
“Thế nếu ta bảo Cristina đưa nó cho Zara thì sao?” Diego từ tốn hỏi.
“Không được. Anh thật sự muốn Kiêu Binh rớ tay vào món bảo vật sao? Chúng ta còn không hiểu được hết công năng của nó.” Jaime quờ quạng nắm lấy tay Diego. Bàn tay nóng như lửa. Những ngón tay gầy guộc chẳng khác mấy hồi nó mới lên mười. “Em sẽ không sao đâu. Xin anh đó. Đừng làm vậy vì em.”
Cộp. Zara xuất hiện ngoài hành lang, Anush Joshi khúm núm theo sau. Thanh Cortana lủng lẳng đeo bên hông cô ta. Diego nhìn mà ngứa mắt. Một thanh kiếm như Cortana đúng lý phải đeo sau lưng. Zara quả nhiên chỉ khoái khoe mẽ chứ chẳng biết có được một thanh bảo kiếm như thế thì phải sử dụng thế nào.
Anush bê một cái khay đặt hai cái bát, bên trong chứa món cháo sền sệt như thường lệ. Quỳ xuống, nó đẩy cái khay qua khe hẹp dưới cánh cửa.
Sao một người tuyệt vời như Divya lại có đứa em họ tệ hại thế này cơ chứ? Diego thầm nghĩ.
“Đúng rồi đấy Anush,” Zara nói, đi qua đi lại quanh kẻ đồng hành. “Đây là hình phạt cho cái tội bỏ mặc đồng đội trong rừng đấy. Đem cháo cho bọn tù nhân hôi thối nhất ngục.” Cô ta nhếch môi cười với Diego. “Em trai anh không khỏe cho lắm nhỉ? Sốt rồi phải không? Anh có đổi ý chưa đấy?”
“Không ai đổi ý đâu Zara,” Jaime nói.
Zara vờ như không nghe, vẫn chăm chú nhìn Diego. Anh có thể nói ra điều cô ta muốn biết về món bảo vật để đổi lấy tính mạng Jaime. Phần làm anh trong Diego, phần đã luôn bảo bọc Jaime van nài anh hãy làm vậy.
Nhưng lạ lùng thay, vào giây phút này, anh lại nhớ đến lời Kieran từng nói: Ngươi cho rằng sẽ tìm được giải pháp khi thời điểm đến, nhưng tới lúc biến cố thật sự xảy ra, ngươi lại hoàn toàn bị động.
Anh có thể cứu được Jaime ngay lúc này đấy, nhưng anh hiểu rõ Zara, hiểu rằng thế không có nghĩa hai anh em họ sẽ được tự do ra khỏi đây.
Nếu Kiêu Binh đạt được mục đích, sẽ không còn một ai được tự do nữa.
“Jaime nói đúng đấy,” Diego bảo. “Không ai đổi ý đâu.”
Zara trợn mắt. “Được thôi. Vậy thì gặp lại sau nhé.”
Cô ta trở gót bỏ đi, Anush luýnh quýnh theo sau như một cái bóng ủ dột.
Emma ngồi trên bàn làm việc cạnh Cristina, thu vào tầm mắt cảnh sắc đất trời. Qua bức tường kính khổng lồ, cô có thể thấy được đại dương một bên, núi non trùng điệp một bên. Cứ như màu sắc đã trở về với cô sau những ngày đắm chìm trong bóng tối xứ Thule vậy. Mặt biển như cất lên khúc hát của sắc lam và bạc, lục và vàng. Đến cả sa mạc cũng sáng bừng màu lá cây mát mắt, hòa lẫn với lớp cát đỏ mênh mông cùng thung lũng thẳm sâu tím ngắt.
Cristina lấy trong túi ra một lọ thủy tinh xanh biển nhỏ xíu. Chị mở nút rồi đưa lên trước nắng.
Không gì xảy ra. Emma liếc nhìn Cristina.
“Phải chờ một chút,” Cristina bảo.
“Em nghe thấy chị nói trong Điện Unseelie. Chị bảo vụ này không phải do đường phép thuật mà do vong thổ. Lúc đó chị phát hiện ra rồi đúng không? Nguyên nhân căn bệnh pháp sư ấy?”
Cristina huơ huơ cái lọ. “Chị chỉ nghi ngờ chứ chưa dám chắc. Chị biết vong thổ ở Brocelind cũng cùng loại với vong thổ ở Xứ Tiên, nhưng khi chị phát hiện tất cả đều do Đức Vua gây ra, rằng ông ta muốn đầu độc thế giới chúng ta… chị nghiệm ra đây rất có thể là thứ đã gây bệnh cho các pháp sư.”
“Thế Catarina biết chưa?”
“Chị báo với cô ấy ngay khi trở về. Cô ấy nói là sẽ điều tra kỹ…”
Một làn khói xám bắt đầu bay ra khỏi lọ. Làn khói chầm chậm tụ lại thành một hình ảnh mờ ảo có phần nhòe nhoẹt. Hai người họ đang nhìn vào Tessa trong chiếc váy xanh rộng thùng thình, sau lưng chị là một bức tường đá.
“Chị Tessa?” Emma gọi.
“Tessa!” Cristina kêu lên. “Catarina có ở đó với chị không?”
Tessa nở nụ cười yếu ớt. “Tối qua Catarina đã chìm vào giấc ngủ say, mọi người không cách nào đánh thức được. Chị ấy… bệnh nặng lắm rồi.”
Cristina xót xa lẩm bẩm gì đấy. Emma vẫn cứ nhìn chòng chọc vào Tessa. Chị nhìn khác quá. Không già hơn hay trẻ hơn, mà là có sinh khí hơn. Giờ cô mới nhận ra Tessa xứ Thule gần như đã chết tâm rồi, đã buông bỏ mọi cảm xúc từ lâu lắm rồi.
Còn Tessa này lại đang có thai, Emma sực nhớ. Nhìn vào vẫn chưa thấy gì, nhưng Tessa đúng là đang đặt tay lên bụng ý che chở.
“Trước khi hôn mê, Catarina có dặn chị là Cristina chắc đã đoán đúng vụ vong thổ rồi đấy,” Tessa nói. “Ở đây bọn chị có vài mẫu đất, mọi người đang dốc sức nghiên cứu, nhưng chị chỉ sợ là chúng ta sẽ không kịp cứu Magnus hay Catarina hay… rất nhiều pháp sư khác đâu.” Mắt chị ầng ậc nước.
Emma lập tức trấn an. “Tụi em có đáp án rồi chị ơi.” Cô vội vàng thuật lại câu chuyện, nhưng dừng ở khúc gặp Tessa trong hang. Không cần phải cho chị biết đoạn kết làm gì.
“Chị đã nói với em vậy sao?” Tessa sửng sốt hỏi lại. “Chị ở một thế giới khác sao?”
“Em biết nghe rất khó tin. Nhưng chị đúng là sống trong cái hang đó, cái hang to đùng gần Bãi Thang ấy. Church sống chung với chị.”
“Nghe cũng đúng rồi đấy.” Tessa vẫn chưa hết ngỡ ngàng. “Thế kế hoạch là gì? Chị có thể giúp em, nhưng chỉ còn vài pháp sư đủ sức đi với chị thôi…”
“Không, không cần đâu ạ,” Cristina nói. “Anh Jace với chị Clary đang chuẩn bị lên đường rồi.”
Tessa cau mày. “Xem chừng nguy hiểm quá.”
“Chị Aline đã xem lịch tuần tra, sáng mai có một khoảng thời gian hồ Lyn không bị ai canh gác,” Cristina giải thích. “Hai người họ sẽ khởi hành lúc bình minh.”
“Đúng là nguy hiểm không bao giờ tránh mặt Nephilim,” Tessa nói. Chị nhìn sang Cristina. “Phiền em cho chị nói chuyện riêng với Emma một chút nhé?”
Cristina chớp mắt ngạc nhiên, rồi nhảy khỏi bàn. “Vâng ạ.” Chị huých nhẹ vai Emma một cái, đoạn bước ra cửa.
Vậy là chỉ còn lại một mình Emma trong văn phòng với cái bóng chập chờn nhưng đầy vẻ cương quyết của Tessa.
“Emma à,” Tessa cất tiếng ngay khi cửa phòng đóng lại. “Chị muốn trao đổi với em về Kit Herondale.”
Kit bước từng bước dọc bãi cát dài, đôi giày vải thấm ướt vì bị nước triều lên đánh trúng.
Đây là lần đầu tiên cậu xuống bãi biển mà không có Ty đi cùng. Kit không khỏi thấy áy náy, nhưng khi cậu nói là muốn đi dạo, Ty chỉ gật đầu, bảo gặp lại sau. Kit biết Ty muốn nói chuyện với Julian, cậu cũng chẳng muốn làm phiền hai anh em họ.
Nơi đây có nét gì đó thật yên bình, nơi sóng và bờ gặp nhau. Lớn lên trong Phiên Chợ Bóng Tối, Kit đã học được rằng có những vùng “ở giữa” nơi ta dễ làm phép hơn: giữa cầu, hang động nằm giữa bề mặt và lòng đất, vùng ngoại biên giữa hai lãnh địa Seelie và Unseelie. Rồi cả Phiên Chợ Bóng Tối nữa, nằm giữa Thế Giới Ngầm với thế giới con người.
Con nước thủy triều cũng là một nơi như thế, bởi vậy nên cậu mới có cảm giác gần gũi như ở nhà. Nó gợi nhớ đến một khúc nhạc xa xưa ai đó từng hát cho cậu. Chắc là bố rồi, có điều lời hát cứ ngân nga trong đầu cậu bằng giọng nữ.
Bảo chàng tìm cho tôi một mảnh đất
Ngò tây, ngải đắng, hương thảo, xô thơm…
Nằm giữa biển khơi và cát dài phẳng lặng
Rồi chàng sẽ là tình yêu đích thực của đời tôi.
“Đó là một bài hát xưa lắm rồi,” một giọng nói cất lên. Kit đang trèo lên một tảng đá suýt trượt tay ngã dập mặt. Trời thăm thẳm xanh trong, điểm xuyết vài đám mây trắng muốt, đứng trên chồng đá nhìn xuống cậu không ai khác là Shade. Y mặc một bộ âu phục xanh hải quân cũ sờn, cổ tay cổ áo viền chỉ màu, nổi bật hẳn nước da xanh lá. “Sao cậu biết bài đó?”
Giờ Kit mới nhận ra mình đang ngâm nga thành tiếng, bèn so vai một cái. Shade không đội mũ trùm như thường lệ. Gương mặt xanh lá nhăn nheo thân thiện, tóc trắng loăn xoăn. Trán y chỉa ra một cặp sừng nhỏ cong cong như vỏ ốc. Kit nhìn y mà cứ thấy là lạ thế nào. “Nghe được trong Phiên Chợ.”
“Cậu làm gì ngoài này mà không có cái bóng của mình?”
“Ty không phải cái bóng của tôi,” Kit cáu kỉnh.
“Xin lỗi, ta nhầm. Cậu mới là cái bóng của cậu ta.” Ánh mắt Shade toát lên vẻ nghiêm nghị. “Cậu đến để cập nhật cho ta tình hình cái kế hoạch hồi sinh người chết rồ dại kia phải không?”
Đó không phải lý do Kit tới đây, nhưng Shade đã hỏi thì cậu cũng kể lại, chuyện Emma và Julian đã về (lược bỏ đoạn ở Thule), rồi mấy chuyến đi của họ tới Phiên Chợ Bóng Tối, trong tình cảnh rối ren cũng chẳng ai để ý xem hai đứa đi đâu. Julian, ông anh tinh ý nhất trần đời thì bị hôn mê, tới hôm nay tỉnh lại coi bộ vẫn còn mơ mơ màng màng thế nào đó.
“Hai người làm tốt hơn ta tưởng,” Shade hằn học nói, phóng mắt ra biển. “Nhưng mấy thứ các cậu có được đều là hàng dễ kiếm. Vẫn còn vài món khó nhằn hơn nhiều.”
“Nghe như ông muốn bọn này thất bại ấy,” Kit nói.
“Đương nhiên rồi!” Shade xẵng giọng. “Các cậu đúng lý không nên chơi đùa với chiêu hồn thuật! Rốt cuộc chỉ có hại mình hại người mà thôi!”
Kit lùi lại tới khi đạp chân xuống nước. “Vậy sao ông lại giúp bọn tôi?”
“Ta có lý do đàng hoàng,” Shade nói. “Phải, Hypatia chuyển thư của Tiberius cho ta, nhưng đằng nào ta cũng tính tới trú ngụ ở hang để trông chừng cậu.”
“Tôi á?”
“Phải, cậu đấy. Cậu tưởng ta ở lại đây giúp các cậu thực hiện cái trò chiêu hồn ngu xuẩn kia chỉ vì lời ủy thác của Hypatia à? Bọn này đâu có thân đến thế. Là Jem nhờ ta trông chừng cậu. Cái vụ nhà Carstairs nợ ân nghĩa nhà Herondale gì gì ấy.”
Kit không khỏi thấy lạ khi ai đó lại lo lắng, muốn bảo vệ cậu chỉ vì một cái họ. “Được rồi, vậy tại sao ông lại giúp bọn tôi cái vụ làm phép?”
“Ta đã hứa sẽ bảo vệ cậu, vậy nên ta phải bảo vệ cậu. Ty của cậu cứng đầu đúng chất nhà Blackthorn, nhưng cậu thậm chí còn cứng đầu hơn. Ta mà không giúp, tên pháp sư nào đó sẽ nhảy vào, một kẻ chẳng bận tâm xem hai cậu có bị thương tổn gì không. Và không, ta không có kể chuyện này với ai hết.”
“Rất nhiều pháp sư đã ngã bệnh rồi,” Kit nói, chợt nhận ra Shade có chỗ nào khác thường. Y không có vẻ gì là đau ốm hết.
“Có lẽ không sớm thì muộn ta cũng mắc bệnh thôi. Nhưng mà vẫn còn nhiều kẻ dụng phép vô lương tâm… nhóc con nhà ngươi trợn mắt cái gì đấy?”
“Tôi chỉ đang nghĩ hình như ông không biết người ta đã tìm được thuốc trị bệnh cho pháp sư rồi,” Kit nói. “Ở Học Viện ấy.”
Lần đầu tiên vị pháp sư lộ vẻ kinh ngạc thật sự. “Đám Nephilim ư? Tìm thuốc trị bệnh cho pháp sư sao?”
Kit ngẫm lại cái hồi mới nghe về Thợ Săn Bóng Tối. Những kẻ đó không phải con người mà là một đội quân cuồng tín hung hăng mang tư tưởng thượng đẳng. Như thể tất cả đều là Horace Dearborn, không có lấy một người giống Julian Blackthorn hay Cristina Rosales. Hay Alec Lightwood, kiên nhẫn nâng ống hút cho người bạn trai pháp sư uống nước.
“Phải,” cậu nói. “Jace và Clary chuẩn bị đi lấy đó. Tôi sẽ dành một phần cho ông.”
Shade nhăn nhó, quay đi để Kit không thấy được vẻ mặt mình. “Nếu cậu đã muốn vậy,” y cộc lốc nói. “Nhưng phải cho Catarina Loss uống trước, Magnus Bane nữa. Ta có được chút năng lực hộ thân, vậy nên sẽ không đổ bệnh ngay đâu.”
“Magnus là người đầu tiên được nhận thuốc, không cần lo,” Kit nói. “Anh ta đang ở Học Viện đấy.”
Nghe thấy thế Shade liền quay lại. “Magnus ở đây sao?” Y nhìn lên Học Viện, tòa nhà lấp lánh trên sườn đồi như một tòa lâu đài cổ tích. “Chừng nào cậu ta khỏe lại, nhắn là ta đang ở trong hang Bãi Thang,” y nói. “Bảo là Ragnor gửi lời chào.”
Ragnor Shade? Vị thần chuyên giúp bố mẹ đặt tên đẹp cho con cái coi bộ đã bỏ sót cái gã tội nghiệp này rồi, Kit thầm nghĩ.
Cậu quay đi, trở ngược lên lối mòn dẫn về cao tốc. Bãi cát kéo dài trước mặt thành một mảnh trăng lưỡi liềm vàng ươm, ngọn sóng vỗ bờ ánh lên bàng bạc.
“Christopher,” Shade gọi, Kit dừng lại, không khỏi bất ngờ trước cái tên nguyên văn ít người dùng tới của mình. “Bố cậu,” Shade ngập ngừng. “Bố cậu không phải người nhà Herondale đâu.”
Kit chết điếng. Một nỗi hãi hùng trào dâng khắp người. Toàn bộ chuyện này là nhầm lẫn sao? Cậu không phải là Thợ Săn Bóng Tối, cậu không thuộc về nơi này, cậu sẽ bị tước sạch hết tất cả, mất Ty, mất mọi người…
“Mẹ cậu,” Shade nói. “Bà ấy mới là người nhà Herondale. Một nhân vật không đơn giản. Cậu nên tìm hiểu kỹ về mẹ mình đi.”
Nỗi nhẹ nhõm như một quyền đấm thủng ngực Kit. Vài tuần trước cậu sẽ vui lắm nếu biết mình không phải là Nephilim. Giờ thì nó đã trở thành cái số phận tồi tệ nhất. “Bà ấy tên gì?” Cậu hỏi. “Shade! Mẹ tôi tên gì?”
Nhưng vị pháp sư đã nhảy khỏi tảng đá, rảo bước rời đi. Tiếng sóng ầm ì nuốt trọn lời Kit, Shade không một lần nhìn lại.
Búp bê giết người, thợ săn sát thủ, ngạ quỷ không mắt, nghĩa địa mù sương. Đó là những chi tiết Dru thích nhất trong phim Asylum: Frozen Fear, nhưng Kieran thì hình như chẳng có hứng thú mấy. Anh ta ngả người bên đầu ghế sô pha còn lại, đăm chiêu nhìn về chốn xa xăm nào đó trong lúc nhóm người trên màn hình la hét loạn xị.
“Đây là phần em thích nhất này,” Dru nói, tâm trí một nửa nhấm nháp chỗ bắp rang, nửa còn lại nghĩ xem có phải Kieran đang ước được ở nơi nào đó khác, một nơi yên bình như bãi biển chẳng hạn. Cô cũng chẳng rõ sao mình lại được thừa hưởng cái anh chàng tiên này, chỉ là sau cuộc họp chỉ còn cô với anh ta là chẳng được giao việc gì. Vậy nên cô trốn về sào huyệt của mình, một hồi sau Kieran cũng xuất hiện, thả phịch người xuống ghế, cầm lấy một quyển lịch in hình mấy con mèo xù lông mà ai đó… được rồi, là cô, vứt bừa trong phòng. “Cái đoạn ông ta giẫm lên con hình nhân, rồi nó nổ tung thành một vũng máu…”
“Cách đánh dấu thời gian này thật là kỳ diệu,” Kieran nói. “Hết con mèo này lại có con mèo khác. Vậy là đến đông chí ta sẽ có tới mười hai con mèo! Một con còn nằm trong cốc nữa này!”
“Tháng Mười hai có tới ba con mèo trong rổ lận,” Dru nói. “Nhưng anh xem phim đi này…”
Kieran đặt quyển lịch xuống, đưa mắt nhìn ra màn hình với chút hoang mang. Rồi anh ta thở dài. “Chỉ là ta không hiểu nổi,” anh ta nói. “Ta yêu cả hai người họ, nhưng họ lại cứ không chịu hiểu. Họ làm như ta đang hành hạ hay sỉ nhục họ vậy ấy.”
Dru bấm nút tắt tiếng rồi đặt điều khiển xuống. Cuối cùng cũng có người xem cô như người lớn để tâm sự rồi. Ừ thì Kieran nói chuyện chẳng rõ đầu đuôi gì hết, nhưng có vẫn còn hơn không.
“Thợ Săn Bóng Tối không dễ yêu ai,” cô nói, “nhưng một khi yêu là sẽ yêu trọn đời.”
Câu này là chị Helen nói với cô, hình như là ở đám cưới chị thì phải.
Kieran chớp mắt, nhìn thẳng vào Dru như thể cô vừa nói điều gì đó rất chí lý. “Đúng vậy. Không sai. Ta phải tin tưởng vào tình yêu của Mark. Nhưng mà Cristina… cô ấy chưa từng nói yêu ta. Mà giờ thì cả hai người họ đều trở nên xa cách quá rồi.”
“Dạo này ai cũng trở nên xa cách,” Dru nói, nghĩ tới mấy ngày nay mình cô đơn thế nào. “Nhưng đó là vì họ đang lo lắng thôi. Những khi lo lắng, người ta thường thu mình lại, nhiều lúc quên mất là ta đang ở ngay cạnh họ.” Cô nhìn xuống tô bắp rang. “Nhưng thế không có nghĩa họ hết thương ta.”
Kieran chống khuỷu tay xuống gối. “Vậy ta phải làm gì đây Drusilla?”
Drusilla ậm ừ. “Đừng ngần ngại nói lên điều ta muốn, nếu không ta sẽ không bao giờ có được.”
“Cô bé quả thật rất thông thái đấy,” Kieran nghiêm trang nói.
“Chậc,” Dru bảo. “Em đọc được câu đó trên một chiếc cốc đấy.”
“Cốc ở thế giới này thật thông thái,” Dru chẳng rõ Kieran có cười hay không, nhưng dựa vào cách anh ta khoanh tay ngả người ra ghế lại, cô đoán anh ta không còn gì thắc mắc nữa. Thế là cô lại bật tiếng tivi lên.
Emma rút mấy cây đinh ghim ra, cẩn thận gỡ xuống từng sợi chỉ màu, từng mẩu báo cũ, từng tấm ảnh quăn góc. Mỗi vật là một manh mối, hoặc được cô cho là manh mối để khám phá ra bí ẩn cái chết của bố mẹ mình. Ai đã giết họ? Tại sao họ lại chết như thế?
Giờ Emma đã có câu trả lời. Cách đây không lâu cô có hỏi Julian nên làm gì với mớ bằng chứng thu thập được này, nhưng cậu lại bảo tùy cô quyết định. Cậu thường gọi đây là Bức Tường Điên Loạn, nhưng Emma lại xem nó là bức tường tỉnh táo. Tạo nên bức tường này đã giúp cô không phát điên suốt thời gian dài bất lực, chìm đắm trong nỗi nhớ thương bố mẹ, nhớ thương tình yêu vô hạn họ dành cho cô.
Dành cho bố mẹ đây ạ, cô vừa nghĩ vừa bỏ số ảnh cuối cùng vào hộp giày. Giờ con đã biết chuyện gì xảy ra cho bố mẹ, kẻ thủ ác đã phải đền mạng. Không biết như thế có thay đổi được gì không. Nhưng con biết con vẫn sẽ nhớ bố mẹ vô cùng.
Cô có nên nói gì thêm nữa không? Rằng trả thù không phải là liều thần dược cô hằng mong mỏi? Rằng cô đã đâm ra e sợ sự hận thù? Giờ cô đã biết nó mạnh mẽ đến đâu, có thể thúc đẩy ta đến tận đâu. Ở Thule cô đã chứng kiến một kẻ bị ruồng rẫy hận đời thiêu rụi cả thế giới như thế nào. Nhưng rồi Sebastian có hạnh phúc gì đâu. Trả thù chỉ làm cho Sebastian xứ Thule thêm khốn khổ, dẫu cho hắn đã chinh phục được mọi thứ trong tầm mắt.
Có tiếng gõ cửa. Emma vội đẩy mớ hộp vào trong tủ rồi ra mở cửa. Bất ngờ thay người ngoài cửa lại là Julian. Cô cứ tưởng cậu đang ở dưới lầu với mọi người. Cả nhóm vừa tụ tập ăn tối bằng món Thái trong thư viện. Tất cả đều có mặt đông đủ, vừa cười đùa vừa kể chuyện, cặp đôi Magnus nằm dài trên ghế sô pha, vị pháp sư gục đầu thiu thiu ngủ trong vòng tay Alec. Nhìn vào chẳng ai nghĩ sáng sớm mai Jace và Clary sẽ lên đường làm nhiệm vụ nguy hiểm, nhưng đời Thợ Săn Bóng Tối là thế. Luôn luôn có những nhiệm vụ. Luôn luôn có những sớm mai nguy hiểm.
Emma cũng muốn ngồi chơi với mọi người, nhưng ở cạnh Julian và những người kia trong lúc cậu như thế này làm lòng cô đau đớn quá. Đau mỗi khi nhìn cậu mà phải giấu nhẹm điều mình biết, đau vì tự hỏi mọi người có để ý không, và nếu có thì họ đang nghĩ gì.
Julian bước vào phòng, đứng dựa vào khung cửa sổ.
Ngoài kia sao vừa mới mọc, những chấm nhỏ rải rác khắp nền trời.
“Có lẽ mình làm hỏng chuyện với Ty rồi,” cậu cất tiếng. “Nó muốn nói chuyện với mình, mà mình hình như đã không trả lời đúng cách.”
Emma phủi phủi đầu gối. Cô mặc một chiếc áo ngủ màu xanh ngọc dáng cổ điển, dài như áo đầm. “Thằng bé muốn nói gì với cậu?”
Vài sợi tóc nâu sôcôla lòa xòa xuống trán Julian. Cậu vẫn đẹp quá, Emma thầm nghĩ. Dẫu cô có biết thì sao chứ? Cô vẫn xốn xang khi nhìn vào đôi bàn tay họa sĩ rắn rỏi, vào mái tóc nâu mượt mà, vào bờ môi cong như cánh cung thần tình ái, vào đôi mắt thăm thẳm sắc lục pha lam. Từ bước đi đến dáng đứng, nét tao nhã của một người nghệ sĩ, mọi điều ở cậu thì thầm gọi tên Julian với cô. “Mình không biết,” cậu trả lời. “Mình không hiểu. Lẽ ra mình đã hiểu được rồi… nếu không có cái phép.”
“Cậu leo lên giàn thiêu vì nó,” cô nói.
“Mình biết. Nhưng mình nói rồi, đó là bản năng, mình không tự chủ được. Còn cái chuyện ở đây không phải vấn đề sống còn. Là cảm xúc. Vậy nên đầu óc mình không chịu xử lý.”
Cảm xúc cũng là vấn đề sống còn đấy chứ. Emma bèn chỉ tay vào tủ quần áo. “Cậu có biết tại sao mình gỡ hết mấy thứ đó xuống không?”
Julian cau mày. “Vì cậu xong việc rồi. Cậu tìm ra hung thủ giết bố mẹ. Cậu không cần mấy thứ đó nữa.”
“Vừa đúng vừa sai.”
“Nếu mọi chuyện suôn sẻ, hy vọng tới mai Magnus sẽ gỡ phép được cho mình, còn không thì ngày mốt,” Julian nói. “Còn phải xem thuốc giải có tác dụng nhanh cỡ nào.”
“Giờ cậu báo trước cho anh ấy cũng được mà,” Emma nói, ra đứng dựa cửa cạnh Julian. Cô bỗng nhớ tới ngày xưa, những ngày xưa tươi đẹp khi cả hai cùng ngồi trên bệ cửa, đọc sách, vẽ tranh, im lặng tận hưởng thời gian. “Sao phải chờ?”
“Mình không thể kể ra tất cả với anh ta,” Julian nói. “Mình không thể cho anh ta thấy mấy chữ viết trên tay… Anh ta thể nào cũng đòi gỡ phép ngay, mà hiện tại anh ta lại không đủ sức. Anh ta sẽ chết mất.”
Emma ngạc nhiên nhìn sang cậu. “Đó là thấu cảm đấy Julian. Cậu hiểu được Magnus sẽ có cảm giác gì. Vậy là tốt đấy chứ?”
“Có lẽ,” cậu nói. “Mình có một cách để đối phó những tình huống đòi hỏi cảm xúc. Mình tưởng tượng xem cậu sẽ làm gì. Cậu sẽ xem xét đến phương diện nào. Cuộc đối thoại với Ty diễn ra quá nhanh nên mình không kịp làm thế, nhưng trong trường hợp khác thì cách đó quả thật rất có ích.”
“Mình sẽ làm gì ư?”
“Đương nhiên là không áp dụng được với cậu,” cậu tiếp. “Mình đâu thể tưởng tượng cậu muốn mình làm gì với cậu. Mình không thể thấy cậu qua chính mắt cậu. Mình thậm chí còn không thấy được bản thân mình qua mắt cậu.” Cậu chạm khẽ lên cánh tay trần của cô, nơi đặt chữ rune parabatai.
Cô thấy được bóng cậu trên tấm kính: một Julian khác với cùng một gương mặt, cùng đôi mi dài phủ bóng. “Cậu có một biệt tài Emma ạ,” cậu nói. “Lòng bao dung làm mọi người hạnh phúc. Cậu không chỉ tin vào phần thiện trong mỗi con người mà còn tin tất cả đều muốn hướng thiện. Cậu cũng tin tưởng điều đó ở mình.” Emma cố gắng thở đều. Ngón tay ve vuốt trên chữ rune đang truyền từng hồi run rẩy khắp toàn thân cô. “Cậu tin mình còn hơn cả bản thân mình nữa.”
Ngón tay trượt dọc theo cánh tay trần, xuống đến cổ tay rồi vuốt ngược lên. Những ngón tay nhẹ nhàng tinh tế, cậu vuốt ve cô như đang họa hình cô. Đây một nét qua xương quai xanh. Đây chấm phá điểm nhấn dưới cổ họng. Đây đường viền cổ áo mấp mé trên bầu ngực căng.
Emma rùng mình. Cô có thể sa vào xúc cảm này, có thể đắm chìm rồi lãng quên, trầm mê trong ân ái. “Nếu cậu tính làm thế,” cô nói, “thì hôn mình trước đi.”
Cậu ôm cô vào lòng. Hai bờ môi chạm nhau, ấm nóng mềm mại, nụ hôn bắt đầu từ dịu dàng dần trở nên nồng nàn hơn. Tay cô vuốt dọc lưng cậu, lần theo từng đường nét giờ đã quá quen thuộc: những thớ cơ nhẵn mịn dưới lớp áo, những vết sẹo xù xì, đôi bả vai tinh tế, vùng trũng nơi tận cùng sống lưng. Cậu lẩm bẩm rằng cô thật xinh đẹp, rằng cậu muốn có cô, đã muốn từ lâu lắm rồi.
Tim cô cơ hồ văng khỏi lồng ngực, tất cả tế bào trong người đều bảo đây đúng là Julian đó, Julian của cô, rằng cảm giác, hương vị, hơi thở của cậu vẫn vẹn nguyên như trước, rằng cô yêu cậu tha thiết vô cùng.
“Hoàn hảo,” cậu thì thầm bên môi cô. “Đây là cách để hai ta ở bên nhau mà không gây tổn hại cho bất kỳ ai.”
Cơ thể cô gào lên rằng đừng có phản ứng, cứ thuận theo đi. Nhưng tâm trí lại không nghe lời. “Ý cậu là sao hả?”
Cậu nhìn sâu vào mắt cô, gương mặt lẩn khuất dưới mái tóc sẫm màu. Cô muốn kéo cậu lại, lấp đầy môi cậu bằng những cái hôn, muốn nhắm mắt làm ngơ trước mọi điều sai trái.
Nhưng trước giờ cô đâu có phải nhắm mắt trước Julian.
“Không phải hành động, cảm xúc mới là vấn đề,” cậu nói. “Nếu mình không yêu cậu, vậy thì chúng ta có thể làm việc này, có thể quan hệ xác thịt với nhau mà không sợ lời nguyền.”
Nếu mình không yêu cậu.
Cô bước ra khỏi vòng tay cậu. Cảm giác như đang xé toạc da thịt mình, như thể chỉ cần nhìn xuống là cô sẽ thấy ngay những vết thương ứa máu do phải dứt ra khỏi cậu.
“Mình không thể,” cô nói. “Tới lúc cậu có lại cảm xúc, cả hai ta sẽ phải hối hận bởi làm việc này khi cậu chẳng biết yêu thương gì.”
Cậu bối rối nói, “Mình vẫn muốn cậu như trước giờ vẫn thế. Điều đó không hề thay đổi.”
Bỗng dưng cô mệt mỏi đến rã rời. “Mình tin cậu. Cậu vừa mới nói là muốn có mình. Rằng mình thật xinh đẹp. Nhưng cậu không nói là yêu mình. Trước đây cậu lúc nào cũng nói câu đó.”
Mắt cậu lóe lên. “Mình không còn là con người như trước nữa. Mình không thể nói ra thứ tình cảm mình không hiểu được.”
“Chậc, mình lại muốn cái người trước đây cơ. Mình muốn Julian Blackthorn. Julian Blackthorn của mình.”
Cậu đưa tay muốn chạm vào mặt cô. Nhưng cô đã lùi lại, không phải vì ghê sợ, mà là vì quá thích. Cơ thể cô không phân biệt được Julian này và Julian mà cô thật sự cần.
“Vậy với cậu mình là ai đây?” Cậu thả tay xuống.
“Cậu là người mình phải bảo vệ cho tới khi Julian của mình sống lại bên trong cậu,” cô đáp. “Mình không muốn cậu thế này. Mình muốn Julian mình yêu. Có lẽ cậu đang ở trong lồng Jules ạ, nhưng ngày nào cậu còn thế này, thì ngày đó mình cũng ở trong lồng với cậu.”
Buổi sáng đến như bao ngày khác, với nắng rực rỡ và chim hót líu lo tới nhức đầu. Emma lờ đờ bước ra khỏi phòng với cái đầu giật tưng tưng, nhìn thấy Cristina đang thập thò ngay ngoài hành lang. Chị cầm một cốc cà phê, người mặc áo len hồng đào xinh xắn, cổ đeo chuỗi ngọc trai.
Đêm qua Emma chỉ chợp mắt được ba tiếng sau khi Julian rời phòng. Ba tiếng chẳng hề ngon giấc. Cô đóng sập cửa phòng lại, làm Cristina giật mình nhảy cẫng lên.
“Chị nốc bao nhiêu cà phê rồi vậy?” Emma hỏi, cô túm tóc lại, cột gọn bằng sợi ruy băng in hình hoa cúc.
“Này là cốc thứ ba. Chị sắp biến thành chim ruồi luôn rồi.” Cristina huơ huơ cái cốc rồi bước lên sóng vai với Emma, cùng hướng xuống bếp. “Chị cần phải nói chuyện với em Emma à.”
“Sao thế?” Emma e dè hỏi.
“Chuyện tình cảm của chị nát bét hết rồi,” Cristina nói. “Qué lío4.”
4. Một mớ hỗn độn.
“À tốt,” Emma nói. “Em cứ sợ là ba chuyện chính trị chính trường gì cơ.”
Cristina khổ sở nói, “Chị đã hôn Kieran.”
“Cái gì? Ở đâu?” Emma hỏi lại ngay, suýt nữa là bước hụt bậc thang.
“Ở Xứ Tiên,” Cristina rên rỉ.
“Thật ra em muốn hỏi là ở má hay ở đâu cơ?” “Không phải. Một nụ hôn thật sự. Hôn môi ấy.”
“Cảm giác thế nào?” Emma không khỏi ngẩn ngơ. Cô chẳng thể hình dung mình hôn Kieran. Hắn quá lạnh lùng, quá xa cách. Hắn đẹp thật đấy, nhưng là vẻ đẹp của một pho tượng chứ không phải con người.
Cristina đỏ lựng từ mặt xuống tới cổ. “Thích lắm,” chị lí nhí. “Dịu dàng, cảm giác như anh ta quan tâm chị rất nhiều.”
Này còn lạ hơn. Nhưng Emma thấy rằng nhiệm vụ của mình là phải ủng hộ Cristina. Đương nhiên là cô muốn Cristina đến với Mark hơn, nhưng Mark có toàn tâm toàn ý không cũng khó nói, lại còn phép trói buộc nữa… “Chậc,” Emma tặc lưỡi. “Chuyện gì xảy ra ở Xứ Tiên cứ để lại Xứ Tiên đi ha?”
“Nếu em muốn nói chị đừng kể cho Mark thì anh ấy biết rồi,” Cristina nói. “Còn nếu em muốn hỏi chị có thích một mình Mark thôi không thì chị không biết. Chị không biết mình muốn gì nữa.”
“Thế giữa Mark và Kieran hiện giờ là thế nào?” Emma hỏi. “Vẫn còn tình cảm chứ?”
“Chị nghĩ họ yêu nhau theo cái cách chị không thể nào chạm tới được,” Cristina nói, giọng buồn miên man tới mức Emma muốn đứng lại ôm chị thật chặt. Nhưng họ đã xuống tới bếp. Mọi người đứng lố nhố bên trong. Emma ngửi được mùi cà phê, nhưng không thấy mùi thức ăn đâu hết. Bàn trống trơn, bếp nguội lạnh. Julian, Helen, Mark, Kieran đang đứng quanh bàn. Clary và Jace thì ngồi trên ghế, cùng sững sờ nhìn xuống một tờ giấy đặt trên bàn, nhìn như văn kiện gì đó.
Emma đứng khựng lại. Cristina bên cạnh tròn xoe mắt. “Ủa sao… chẳng lẽ hai anh chị đã đi Idris rồi trở về đấy à? Em tưởng hai người phải xuất phát lúc bình minh chứ?” Emma nói.
Jace nhìn lên. “Bọn này chưa đi.” Clary vẫn nhìn chòng chọc tờ giấy, mặt mày tái mét.
“Có chuyện gì à?” Emma lo lắng hỏi.
“Có thể nói là vậy.” Jace nhẹ nhàng đáp, nhưng đôi mắt vàng đã cuộn đầy mây bão. Anh nhịp nhịp xuống tờ giấy. “Thư của Clave. Theo như trong này thì anh và Clary đã chết.”
Zara lúc nào cũng ngồi đúng một chỗ mỗi khi vào phòng Điều Tra Viên. Manuel đoán là vì cô ta thích ngồi dưới bức tranh thêu của mình, để mọi người phải nhìn không chỉ một mà hai Zara.
“Cả ngày nay báo cáo cứ lũ lượt gửi về,” Zara vừa nói vừa nghịch bím tóc. “Tất cả Học Viện đều phản ứng dữ dội trước tin Jace và Clary chết dưới tay Tiên Tộc.”
“Đúng như chúng ta mong đợi,” Horace nói, xoay người trên ghế rồi hừ một tiếng vì đau. Manuel không khỏi bực mình vì lão ta tới giờ vẫn còn rên rỉ vụ cánh tay, hay đúng hơn là cái mẩu tay cụt từ khuỷu trở lên băng thành một cục to tướng. Chữ iratze hẳn đã khép miệng vết thương rồi, còn Horace cũng chỉ có thể tự trách mình khi để con quỷ cái Wrayburn ra tay.
Manuel ghét cay ghét đắng Horace. Nhưng nói đúng hơn thì gã ghét tất cả bọn cuồng tín. Gã cóc cần biết Cư dân Thế Giới Ngầm có sống ở Alicante hay bọn thần tiên có dung dăng ngoài rừng Brocelind hay người sói có tắm bồn trong nhà gã. Cái sự kỳ thị Cư dân Thế Giới Ngầm trong mắt gã là một trò tẻ nhạt vô bổ. Nó chỉ có được một công dụng duy nhất là làm mọi người sợ hãi.
Một khi người ta sợ hãi, người ta sẽ làm theo mọi điều ta muốn để đổi lấy sự an toàn. Lúc Horace nói về việc lấy lại vinh quang quá khứ cho Nephilim rồi đám đông reo hò, Manuel biết những kẻ đó thực chất reo hò vì cái gì. Không phải vinh quang. Là chấm dứt nỗi sợ. Cái nỗi sợ dai dẳng đeo bám từ khi Cuộc Chiến Hắc Ám khiến họ nhận ra mình không phải là vô địch.
Đã có thuở Thợ Săn Bóng Tối tin mình vô địch. Gót giày họ tùy tiện giẫm lên cổ quỷ dữ với Cư dân Thế Giới Ngầm, họ cưỡi trên lưng thế giới. Nhưng giờ họ chỉ nhớ đến những thi thể hỏa thiêu ở Quảng Trường Thiên Thần. Và họ sợ.
Mà sợ thì rất có ích. Ta có thể khống chế nỗi sợ để đạt được nhiều quyền lực hơn. Mà đến tận cùng, quyền lực là tất cả những gì Manuel muốn.
“Có nghe tin gì từ Học Viện Los Angeles chưa?” Horace hỏi, ngả người ra chiếc ghế sau chiếc bàn to tướng. “Xứ Tiên báo lại là bọn nhà Blackthorn đã trở về. Nhưng chúng biết được gì rồi?”
Chúng biết được gì rồi? Bố con Horace cũng băn khoăn thế khi nhận được cái xác không ra hình người của Dane. Cái thằng Dane ngu ngốc, nửa đêm lẻn khỏi trại Oban, tự mình đi tìm Tập Sách Đen để lập công. (Cái thằng cũng lấy theo cả cái mề đay ngăn sự chênh lệch thời gian, hại Manuel lỡ hết hai ngày lúc về tới Idris.) Manuel ngờ rằng dưới mấy dấu răng thủy mã kia có một vết kiếm đâm, nhưng gã không nói cho bố con Dearborn biết. Bố con nhà đó chỉ thấy điều chúng muốn thấy, vả lại bọn Emma có phát hiện ra vụ Horace cử sát thủ bám theo thì cũng chẳng hề gì.
“Về Clary và Jace ấy à?” Manuel hỏi. “Nhất định bọn chúng đều biết hai kẻ kia đã nhảy qua Cổng Dịch Chuyển tới Thule. Không có đường nào cho chúng trở về đâu. Thời gian đã mấy ngày rồi, Cổng cũng đã đóng, Oban khẳng định với cháu rằng Thule là một vùng đất chết. Tới giờ này hai kẻ đó hẳn đã trở thành nắm xương khô ở xứ người rồi.”
“Đằng nào thì nhà Blackthorn với Emma cũng chẳng dám chống đối chúng ta đâu,” Zara bảo. “Chúng ta vẫn còn nắm trong tay bí mật của chúng nó.” Cô ta đặt tay lên chuôi Cortana. “Vả lại những thứ thuộc về chúng sẽ không còn là của chúng lâu nữa đâu, thậm chí cả cái Học Viện. Có lẽ sẽ có vài nơi chống đối chúng ta: Mexico, Buenos Aires, Mumbai. Nhưng chúng ta sẽ xử lý hết được bọn đó thôi.”
Zara đúng là một kẻ cuồng tín chân chính, Manuel chán ghét nghĩ. Cô ta khô như ngói từ đầu đến chân, gã từ đầu đã không tin Diego Rocio Rosales tìm thấy điểm nào đáng yêu ở cô ta. Quả nhiên gã đoán không sai chút nào. Manuel ngờ rằng Diego phải chết dần chết mòn dưới ngục không chỉ vì tội giúp thằng ngốc thần tiên chạy trốn mà còn vì xù đẹp Zara nữa.
Horace quay sang Manuel. “Phần của cháu làm tới đâu rồi Villalobos?”
“Đâu vào đấy cả rồi ạ. Quân Unseelie đã tụ tập về dưới trướng Đức Vua Oban. Lúc chúng đến trước tường thành Alicante, chúng ta sẽ ra nghênh đón, tỏ ý muốn hòa đàm trên Cánh Đồng Trường Cửu. Chúng ta sẽ đảm bảo tất cả Thợ Săn Bóng Tối ở Alicante chứng kiến được cảnh đó. Sau buổi diễn, chúng ta trở về Hội Đồng, báo rằng thần tiên đã chịu đầu hàng. Hiệp ước Hòa Bình Lạnh chấm dứt, bởi vì bọn chúng đã có thiện chí thỏa hiệp, đổi lại chúng ta sẽ niêm phong mọi lối vào Xứ Tiên. Thợ Săn Bóng Tối không được phép đặt chân đến vùng đất đó nữa.”
“Tốt lắm,” Horace nói. “Nhưng Cổng Dịch Chuyển tới Thule đã đóng rồi, vậy mấy mảng vong thổ sẽ ra sao?”
“Vẫn ở đúng chỗ chúng ta muốn,” Manuel nói. Gã hài lòng lắm. Chính gã đã đề ra ý tưởng dùng lửa đốt sạch vong thổ. Gã thừa biết việc đó chẳng thể thành công, sự thất bại sẽ càng làm các Nephilim thêm sợ hãi. “Chất độc lan tràn như thế là đủ cho mục đích của chúng ta rồi. Toàn bộ Clave đã biết tới vong thổ, tất cả đều sợ hãi tác hại mà nó có thể gây ra.”
“Mà chúng càng sợ thì càng dễ bảo,” Horace nói. “Zara?”
“Bệnh tình đám pháp sư ngày càng trầm trọng,” Zara khoái trá nói. “Chưa có báo cáo nào về việc biến đổi, nhưng nhiều Học Viện đã đón pháp sư vào ở để chữa trị cho chúng. Một khi chúng hóa quỷ, không cần nghĩ cũng biết sẽ có cảnh tượng đẫm máu gì.”
“Càng thuận lợi cho chúng ta phát động thiết quân luật, diệt sạch bọn pháp sư còn lại,” Horace nói.
Việc vong thổ không chỉ làm các Thợ Săn Bóng Tối sợ mất mật mà còn gây họa cho pháp sư là một điểm cộng rất lớn trong mắt Horace. Nhưng Manuel thì chẳng thấy hay ho gì. Trò đó chỉ tổ giới hạn năng lực của Thợ Săn Bóng Tối như tạo Cổng Dịch Chuyển hay chữa trị mấy chứng bệnh bất thường. Bọn cuồng tín là vậy đấy. Chẳng biết thiết thực là gì. Mà thôi. Chắc sẽ có vài pháp sư sống sót ấy mà, gã tự nhủ. Một khi Kiêu Binh đạt được mục đích rồi, có lẽ họ cũng sẽ rộng lòng ra tay diệt trừ vong thổ tận gốc. Đằng nào Horace cũng đâu có thích thú gì vong thổ hay khả năng vô hiệu hóa phép thiên thần của nó. Chẳng qua nó chỉ là một công cụ hữu ích, như chị em nhà Larkspear thôi.
“Chú không ngại đám pháp sư hóa quỷ sẽ vượt tầm kiểm soát rồi giết hại Thợ Săn Bóng Tối à? Thậm chí cả người phàm?”
“Không ngại,” Horace nói. “Một Thợ Săn Bóng Tối được đào tạo bài bản dư sức xử lý một tên pháp sư hóa quỷ. Còn nếu không thì coi như chúng ta đã làm công ích bằng cách sàng lọc những kẻ vô dụng.”
“Con chỉ thắc mắc là chúng ta có tin được Oban hay không,” Zara bĩu môi. “Suy cho cùng hắn vẫn là thần tiên.”
“Tin được,” Manuel nói. “Hắn dễ bảo hơn cha mình nhiều. Hắn muốn cai trị đất hắn, chúng ta muốn cai trị đất chúng ta. Vả lại nếu chúng ta giao đầu hoàng tử Kieran cho hắn như đã hẹn thì hắn sẽ hài lòng lắm.”
Horace thở dài. “Phải chi chúng ta không phải lén lút làm mấy thỏa thuận này. Toàn thể Clave nên thấy hãnh diện vì kế hoạch chính đáng của chúng ta.”
“Nhưng bọn họ không thích thần tiên đâu ba,” Zara, kẻ cả đời chỉ hiểu đúng nghĩa đen liền nói. “Bọn họ không tán đồng việc ta giao dịch với thần tiên, hay khuyến khích chúng gieo rắc vong thổ ở Idris, cho dù là vì đại nghĩa. Nhúng tay vào quỷ thuật đúng là phạm luật thật nhưng con biết việc này là cần thiết,” cô ta vội bổ sung. “Ước gì còn Samantha với Dane ở đây. Ta có thể bàn bạc với hai bạn ấy.”
Manuel hờ hững nghĩ tới Dane, tử vì ngu, cũng như Samantha, hiện đang vật vã trong dưỡng đường Basilias. Hai đứa đó lúc còn sống khỏe khéo cũng chẳng giúp được gì đâu.
“Đó là cả một gánh nặng cô đơn con ạ, làm người mang trọng trách thực thi lẽ phải,” Horace vênh mặt nói.
Zara đứng dậy, bước tới vỗ vỗ vai bố mình. “Thương ba. Ba có muốn nhìn vào viễn kính nữa không? Mỗi lần nhìn ba đều thấy vui hơn mà.”
Manuel ngồi thẳng dậy. Viễn kính là một trong số ít những thứ không làm gã phát chán. Oban đã đặt phép để nó hiện lên hình ảnh cánh đồng trước Tháp Unseelie.
Zara giơ chiếc gương lên, ánh sáng từ tháp quỷ lấp lánh trên phần tay cầm bạc. Cô ta khẽ á một tiếng khi chiếc gương trở nên trong suốt, rồi hiện lên hình ảnh cánh đồng xanh mướt cùng tòa tháp đen. Xếp trước tháp là từng hàng từng hàng lính Unseelie, kéo dài tới ngút tầm mắt. Một đạo quân không giới hạn, không kết thúc. Lưỡi kiếm trên tay chúng ánh lên dưới nắng, tựa như một cánh đồng gươm sắc bén khổng lồ.
“Thấy thế nào?” Horace tự hào hỏi như thể lão là người tập hợp nên đạo quân này. “Ngoạn mục quá đúng không, Annabel?”
Người phụ nữ tóc đen dài nãy giờ vẫn lặng lẽ ngồi trong góc chậm rãi gật đầu. Ả mặc bộ trang phục tương tự bộ mặc vào cái ngày đẫm máu ở Sảnh Hội Đồng; Zara đã đào được một bộ gần như giống hệt, nhưng Manuel mới là người đầu tiên nảy ra ý sử dụng bộ quần áo như một loại vũ khí.
Không có mấy thứ trên đời mạnh hơn nỗi sợ. Từ sau cuộc họp Hội Đồng, Thợ Săn Bóng Tối đã đâm ra khiếp sợ Annabel Blackthorn. Chỉ cần ả xuất hiện, tất cả sẽ co cụm nấp sau lưng Horace. Họ sẽ chỉ còn quan tâm tới việc lão có bảo vệ được họ không.
Rồi với Julian Blackthorn và đám anh chị em phiền nhiễu của nó, chúng sẽ không chỉ sợ. Là thịnh nộ. Căm hận. Tất cả những cảm xúc để Kiêu Binh mặc tình khai thác.
Horace cười khan một tiếng, tiếp tục ngắm nghía chiếc gương.
Giấu mình trong bóng tối, Manuel nở nụ cười tàn độc. Bọn chúng tuyệt đối không ngờ nổi chuyện gì sắp tới đâu.
Đúng như gã muốn.