Nghĩ đến đường hầm thoát hiểm mà Hector và tôi phải dùng để quay về lâu đài, tôi nhận ra rằng, tất nhiên, ngôi nhà mới của tôi cũng có những bí mật khác, rất nhiều trong số đó đã bị lãng quên, có lẽ không được ai đoái hoài trong suốt nhiều thế kỷ tu sửa và cơi nới.
Ximena đi qua và bắt đầu lần sờ bức tường đá. “Nếu có một lối vào khác, chúng ta phải tìm ra cho bằng được,” bà nói khẽ. Bà đã đúng; chúng tôi không nên để bất kỳ lối nào vào lâu đài không được canh giữ.
Mọi người vội vàng giúp đỡ, và bà vú chỉ huy họ hiệu quả đến khó tin. Chỉ một lát, mọi phần của bức tường và sàn nhà đều bị bao nhiêu ngón tay sờ mó. Tôi muốn nhập hội, nhưng chỉ có thể dựa vào một cỗ quan tài trống để đứng vững.
“Im lặng lục soát đi,” Ximena nói. “Hãy cho tôi biết nếu có ai nghe thấy hay cảm thấy gió.” Không ngạc nhiên gì khi người hộ vệ của tôi am hiểu về những mật đạo. Bà có lẽ biết những cách thoát khỏi một pháo đài nhiều như biết cách giết người.
Mara đang bò toài trên sàn bỗng cất tiếng, “Tôi cảm thấy có gì này. Hình như có gió.”
Tôi vội bước tới, khiến mạng sườn đau buốt. Hector vội vàng đỡ tay tôi. Tôi dựa vào anh.
“Hướng nào?” Ximena hỏi.
“Không rõ nữa.” Mara ngước lên. “Tôi cảm thấy bên má trái.”
Một Ngự lâm quân khom người rọi đuốc xuống.
“Để ý lá cờ,” Ximena nói khi lửa gí quá sát lá cờ phủ quan tài.
Mara và người lính kia vuốt tay trên sàn đá, tìm những kẽ nứt.
“Thử ấn xem sao?” Anh lính nọ đề nghị. “Ở trong thư viện của cha tôi có một viên đá lát lò sưởi mà nếu ta ấn vào nó, một cánh cửa sẽ mở ra.”
Thế là họ ấn mọi viên đá gần nhất, theo đủ các góc độ. Không ăn thua.
Tôi nói, “Thử bệ đá xem.” Cỗ quan tài nằm trên đó trống không, kiên nhẫn chờ đợi một chủ nhân, có lẽ là tôi.
Mọi người xúm lại, đuốc giơ cao, chắn mất tầm mắt tôi. Tôi thở một hơi mệt mỏi.
Hector thì thầm bên tai, “Cô ổn chứ?”
“Chỉ thất vọng về bản thân thôi. Tôi không thích mình yếu ớt thế này. Và tôi đã lôi tất cả xuống đây lúc nửa đêm nửa hôm chẳng để…”
“Có một cái then!” Ximena nói. “Ở dưới chân bệ. Để xem tôi có thể…”
Cỗ quan tài dịch lên trên chừng một ngón tay. Vài anh lính vội vàng tránh ra khi cái bệ và trục quan tài êm ru dịch chuyển sang bên. Không khí trong lành ùa vào phòng, và một ngọn đuốc tắt ngóm. Những ánh đuốc còn lại lay động nhưng không sao.
Bám vào cánh tay Hector để đứng vững, tôi nhòm qua vai Mara và suýt hắt hơi khi cái không khí lành lạnh, mặn mòi tràn vào khoang mũi. Chỗ lúc trước đặt bệ quan tài là một cái hố rộng ngoác. Những bậc thang đá, rìa đã mọc rêu xanh, tạo thành hình xoáy ốc dẫn vào bóng tối. Một người lính giơ cây đuốc, ánh sáng hắt lên đám rêu xanh, và tôi thấy đó thật ra là mốc.
“Eo,” Mara nói.
“Kinh thật,” Ximena đồng tình.
Hector nói, “Nữ hoàng đã đúng,” và tôi có cảm giác anh đang nói thay những người còn lại. “Cô đã đúng khi tin theo bản năng, và cô đã đúng khi tin Martín.”
Lời của anh khiến tôi ấm lòng. Hector luôn là đồng minh tuyệt vời nhất. Tôi nhìn vào mắt anh và khẽ gật đầu, hy vọng anh hiểu tôi cảm kích nhiều đến thế nào.
“Giờ thì,” tôi nói, “hãy minh oan cho Martín bằng cách xem cái cầu thang này dẫn đi đâu.”
Những người lính dấn xuống cây cầu thang bí mật, háo hức bước vào bóng tối nguy hiểm không rõ ẩn chứa điều gì phía trước.
“Đợi chút,” tôi nói. “Mara, trở lại phòng tôi. Hãy lấy cớ gì đó để không cho ai vào thăm hết. Trên đường về, nhớ bảo với lính gác rằng tôi đang cầu nguyện và không muốn bị ai quấy rầy.”
Cô sung sướng gật đầu, và Hector ra hiệu cho hai Ngự lâm quân đi cùng.
Khi họ đã đi rồi, anh quay sang tôi. “Cô đã sẵn sàng thật rồi chứ?”
“Có việc để làm sẽ giúp tôi phục hồi nhanh nhất.”
“Tôi biết cô sẽ nói vậy mà.” Một nụ cười thấp thoáng trên môi anh. “Đi dạo trong tu viện cũng là làm gì đó. Vậy sẽ…”
“Tôi sẽ làm việc này.”
Anh thở dài, bỏ cuộc. “Những lúc thế này, tôi nhớ Alejandro ghê gớm. Ngài dễ bị thuyết phục hơn cô.”
Tôi cố nín cười.
“Bám vào vai tôi. Và nếu cô đổi ý…”
“Ừ, chúng ta đi thôi.”
Tôi ngoái nhìn Ximena, mong bà sẽ phản đối, nhưng bà chỉ chăm chăm nhìn Hector, gương mặt không biểu lộ cảm xúc.
Fernando xuống trước, giơ cao cây đuốc, và Hector đi theo. Đến lượt tôi, tôi cẩn thận giẫm cả bàn chân xuống để tránh trượt chân trên lớp mốc xanh nhớt. Không khí ẩm ướt khiến mặt tôi ngứa râm ran, làm những sợi tóc bay khỏi thái dương. Trong chuyến thám hiểm này, chắc chắn chúng tôi sẽ thấy một nguồn nước, vì sông ngầm khá gần, tiếng chảy ào ào đều đều hiện hữu thường xuyên đến độ chúng tôi gần như coi đó là yên lặng.
Cầu thang xoáy ốc – chật chội và dốc. Mốc mọc đầy trên những bức tường sát bên, và tôi không dám chạm vào, dù chỉ để giữ thăng bằng. Tôi thấy sẽ dễ hơn khi cứ bám tay vào hõm vai Hector và tin tưởng anh sẽ giúp cả hai đứng vững.
“Có các vết lõm trên lớp rêu,” Fernando nói, giọng âm âm vang vọng. “Có người đã đi qua chốn này.”
“Trong hầm mộ không có vết chân,” Hector hỏi.
“Có ai thấy sàn mộ sạch sẽ quá mức không?” Tôi hỏi. “Ai đến xem xét đầu tiên?”
Hector dừng bước, đầu gối tôi va vào bắp đùi anh. Nhưng anh đi tiếp không đáp. Có lẽ anh không muốn nói ra tên tướng quân trước mặt cấp dưới của mình.
Vùng bụng bị thương của tôi căng lên đau đớn khi cầu thang kết thúc, dẫn ra một địa đạo thấp. Nền cát hơi mấp mô, như bãi biển sau khi sóng rút.
“Lúc triều dâng nơi này sẽ bị ngập,” Hector nói khi tôi đang rút ra kết luận tương tự. “Đây là đường nước.” Anh chỉ tường, nơi hàu bám cao đến chừng ngang mắt cá chân.
Tôi nuốt cảm giác thất vọng xuống. Toàn bộ dấu vết của kẻ đã đi qua đây sẽ bị cuốn sạch, và có lẽ chúng tôi chẳng thể tìm được bằng chứng về tay sát thủ nọ.
Fernando kêu lên, khiến tất cả giật nảy người. “Xin lỗi,” anh ấy hổn hển cất tiếng. “Là cua thôi.” Tôi bỗng mừng vì mình xỏ chân vào đôi giày đi trên sa mạc, không bị ảnh hưởng gì bởi rêu nhớt, cát hay những sinh vật bò lổm ngổm.
Có gì đó trên tường khiến tôi để mắt – một đường rãnh khắc vào đá. “Gì đấy?” Tôi chỉ.
Fernando giơ đuốc chiếu rọi một hàng chữ, mỗi chữ cao chừng ngón cái của tôi. Thánh thạch ấm lên vì nhận ra.
“Đây là Thánh ngữ,” Ximena nói, kèm theo tiếng thở dài bâng khuâng. “Trích trong Scriptura Sancta.”
Tôi dịch. “Cánh cổng dẫn đến sự sống rất nhỏ hẹp nên hiếm người tìm ra.”
Ximena vuốt ve từng con chữ. Có thời bà là người phụ trách việc văn thư trong tu viện Amalur trước khi trở thành vú nuôi của tôi, và cũng như tôi, bà rất yêu quý những thánh thư và văn kiện cổ.
“Nhìn dấu móc ở đây,” bà nói. “Và đường hất ở cuối ấn ký cổ mà xem. Cách viết này đã không được sử dụng hàng thế kỷ rồi.”
“Nhưng nó có ý nghĩa gì với những người qua lại nơi này?” Tôi trầm ngâm. “Đường nào sẽ ‘dẫn đến sự sống’?”
“Chỉ có một cách để tìm ra thôi,” Hector nói, và tôi thấy ấm lòng khi nhận thấy sự hiếu kỳ của anh.
Không gian giữa hai vách sa thạch càng lúc càng hẹp, tới khi địa đạo chỉ còn đủ cho những người lính nghiêng vai lách qua. Dù ở đây thoáng gió và mát mẻ, nhưng tôi vẫn lưu tâm đến khối đá bên trên. Quá lớn, quá nặng. Cả thành phố đang sống trên đó. Tôi đang rất lo lắng thì Fernando tuyên bố, “Lại cầu thang nữa.”
Cái này dẫn thẳng lên, chứ không chạy theo hình xoáy ốc, trông lô nhô như có ai đã dùng rìu cùn tạc ra. Tôi mừng khi thấy những bậc thang khô ráo, không có bóng dáng rêu mốc.
“Fernando,” Hector bảo. “Giấu đuốc đi.”
Người lính gác đưa cây đuốc ra sau lưng. Ximena cũng làm tương tự với cây đuốc của mình, và chúng tôi bỗng nhận ra có một quầng sáng khác, mờ mờ thôi, soi tỏ cầu thang.
“Anh có nghĩ nó dẫn ra bên ngoài không?”
“Chúng ta đã xuống quá sâu,” Hector nói. “Trừ khi tôi xác định nhầm phương hướng, còn không tôi nghĩ chúng ta đang ở dưới Wallows.”
Wallows. Khu vực nguy hiểm nhất trong thành phố của tôi, nơi tôi không được phép lui tới kể cả khi có người tháp tùng và trang bị vũ khí. Nơi mà mỗi đời quân chủ trước tôi đều thề sẽ sửa sang cải thiện, và dẫn đến nhiều kết quả khác nhau, nhưng chủ yếu chẳng mấy tốt đẹp. Nơi gái làng chơi, ăn mày và dân buôn bán chợ đen họp lại thành một cộng đồng nhỏ nằm trong thành phố, ngoài tầm cai quản của tôi.
Hector quay sang nhìn tôi, ánh mắt dữ dội. “Thưa nữ hoàng, nếu tôi cảm thấy nguy hiểm, tôi sẽ ép ngài rời đi, trái với ý muốn của ngài nếu cần thiết.”
“Và nếu chuyện đó đến, tôi hứa sẽ chỉ giận một lúc thôi.” Tôi nói nghe gắt gỏng hơn ý định, chủ yếu giận lẫy vì anh chuyển sang gọi tôi là nữ hoàng giữa các bạn hữu. “Chúng ta đi thôi.”
Leo lên bậc thang khiến vết thương ở bụng của tôi thêm đau, và tôi khiến mọi người phải chậm bước. Con đường chật hẹp và dốc làm cho việc bám vào Hector gây ra nhiều rắc rối hơn mức cần thiết. Tiếng nước chảy lớn hơn, quầng sáng cũng rõ hơn. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã không cần đến đèn đuốc gì nữa. Tôi không thể nghĩ ra cái gì có thể tạo nên nguồn sáng này ở sâu dưới lòng đất như thế.
Cầu thang kết thúc. Fernando thở một hơi ngạc nhiên, và tôi định hỏi anh ta thấy gì, nhưng chính tôi cũng không thể cất nên lời khi bước vào vùng sáng.
Cầu thang kết thúc tại một gờ đá cao trông ra cái hang động lớn nhất tôi từng được thấy. Dòng sông uốn khúc theo vách đá dốc đứng đối diện. Nước chảy êm và trong vắt như gương, dù một âm thanh đều đặn nghe như tiếng gió rít ứng với những con thác gần đó. Ở bên trái, trên vách đá là những hang nhỏ hơn, tất cả đều được nối với nhau nhờ những cái thang dây và cầu dây treo. Trên nền hang là vài cái lều lớn, được dựng từ gỗ ván và những mảnh thuyền bè cũ.
Người người ở khắp nơi, đang hối hả theo nhịp sống như tại bất cứ một nơi bình thường nào. Một người phụ nữ ngồi chắn trước cửa một cái hang nhỏ, đang nấu nướng gì đó trên bếp lửa. Bên ngoài cái lán lớn nhất, hai người đàn ông râu ria xồm xoàm, mặt đỏ ửng vì bị nẻ đang cùng nhau sửa lưới đánh cá. Gần sông, một nhóm trẻ con chạy chân đất đang chơi trò gì đó với que và một quả bóng da.
Ánh sáng ùa vào qua các kẽ nứt trên trần hang. Nơi nào có nắng chiếu, nơi ấy cây cối mọc tốt tươi: những cây dây leo lá bản rộng, dương xỉ, và hàng trăm sợi dây leo rủ xuống còn chưa chạm đến nóc những lán nhà.
“Đây là một ngôi làng,” tôi thì thào, “bao lâu nay vẫn nằm ngay dưới chân chúng ta.”
“Tôi còn chưa từng nghe tới nơi này,” Hector khẽ đáp.
Nhưng đặc điểm của hang động này khuếch đại giọng nói của chúng tôi, đưa tới những lán trại bên dưới. Mọi người dừng tay và ngước nhìn. Tôi thấy vẻ hoang mang của chính mình trên gương mặt họ.
Tay Hector ngay lập tức di chuyển xuống bao kiếm. Anh và Fernando bước lên chắn trước mặt tôi. Nhưng đã quá muộn, vì có người đang gào lớn, “Nữ hoàng kìa!”
Tôi nghe thấy những tiếng kêu ngạc nhiên, tiếng lanh canh của nồi niêu xoong chảo, tiếng chân chạy.
Hector quay sang tôi. “Chúng ta cần đưa cô rời khỏi đây.”
“Chưa đâu! Họ sợ chúng ta hơn là chúng ta sợ họ, thấy chứ?”
Fernando tháo cung khỏi vai và lắp tên vào. Anh và Hector nhìn nhau, và Hector gật đầu. Người lính bước lên, giương cung, nhắm xuống dưới.
“Dừng lại!” Hector hét vang. “Nhân danh nữ hoàng!”
Âm thanh của cuộc sống bên dưới khẽ dần, chỉ còn lại tiếng gió xì xào bên trên và tiếng nước róc rách phía dưới. Giờ đây tất cả đều đứng lặng, tôi nhận thấy băng gạc, một băng đeo, một cái chân được nẹp, một cái đầu được băng bó, nhưng lớp băng nhuộm màu đỏ nâu của máu đã khô.
“Họ đã lắng nghe rồi đó, thưa nữ hoàng,” Hector nói. “Ngài có muốn nói gì với họ không? Hay ngài muốn rút lui? Tôi cho là nên rú…”
“Hector, những người này bị thương,” tôi nói khẽ.
“Rất có thể họ liên quan tới các cuộc nổi loạn,” anh nói đều đều.
Tất cả đều ngước mắt chăm chú nhìn tôi, nửa hoảng hốt, nửa phấp phỏng hy vọng, và cảnh tượng ấy quá quen thuộc khiến tim tôi thắt lại. Ai đã làm hại những con người này. “Họ trông như vừa trải qua chiến tranh.”
“Nổi loạn cũng là một dạng chiến tranh.”
Ồ. Bụng tôi quặn lên khi hiểu ra có thể họ bị thương vì tôi. Tôi lại đang lâm vào cảnh chiến. Một cuộc chiến không rõ ràng, vô mục đích, nhưng vẫn là một cuộc chiến. Đây là con dân của tôi. Nhưng có thể họ cũng là kẻ thù của tôi.
“Họ có vũ khí không?” Tôi hỏi. “Họ có thể tấn công chúng ta từ dưới kia không?”
“Tôi thấy là không. Chúng ta ở trên cao và hiện đang có lợi thế.”
Có lẽ tôi nên thiêu rụi chốn này, buộc tất cả phải lên mặt đất. Nhưng Belleza Guerra vang lên trong đầu tôi: Luôn tìm kiếm đồng minh. Nếu bất thành, hãy gieo nỗi sợ vào lòng địch.
Tôi bước tới. Hector lui sang bên cho tôi qua, nhưng nghe tiếng thép vang khe khẽ, tôi biết anh đã rút kiếm. Ánh mắt Fernando quét khắp đám người bên dưới, sẵn sàng cho bất cứ hành động bất thường nào.
Lòng tự tin của tôi lớn dần, mà điều ấy kể cũng lạ, cho tới khi tôi nhận ra cái hang động bí mật này làm tôi nhớ đến khu trại hẻo lánh miền sa mạc, nơi tôi đã dành nhiều tháng lên kế hoạch chống lại Invierne. Như phiến quân của tôi, những con người này cũng rách rưới nhưng sạch sẽ, bị thương nhưng tràn ngập lòng kiêu hãnh. Có lẽ tôi không nên cho phép bản thân cảm thấy sự tương đồng ấy.
“Ta rất ngạc nhiên,” tôi nói, giọng vang khắp xung quanh. Tôi mỉm cười, hy vọng trấn an họ, nhưng chỉ thấy nỗi sợ hãi. Một người phụ nữ ôm con trai nép sát bên mình.
Tôi nhận thấy thành thật là cách tiếp cận dễ nhất. “Ta có thể đưa một đội lính đến quét sạch nơi này.” Những đôi mắt trợn to, những đôi chân nhúc nhích. “Rõ ràng là các ngươi đã gây ra vài rắc rối, nhưng có lẽ ta sẽ xem xét lại. Nếu các ngươi trốn ở đây chỉ để tránh việc tăng thuế hoặc để làm việc buôn ngay bán thật tránh khỏi con mắt chó săn của các thương hội, ta chắc chắn chúng ta có thể thu xếp.”
Vẻ đề phòng của họ không hề giảm đi một chút nào.
Tôi thử cách khác. “Ta có thể nói chuyện với thủ lĩnh của các ngươi chứ? Nếu không có, các ngươi nên cử đại diện ngay lập tức.” Tôi lùi khỏi gờ đá.
Ximena gật đầu tán thưởng, ngay cả khi cúi xuống rút dao găm khỏi giày. Tôi từng thấy bà dùng trâm cài tóc giết người, để bảo vệ tôi. Bà đâm nó vào dưới quai hàm hắn, xuyên trúng não đơn giản, chỉ nhờ thực hành và được đào tạo lâu.
Một giọng nói vang lên từ phía dưới. “Thưa nữ hoàng!”
Fernando ngắm tên vào ông lão đang cà nhắc bước lên. Da ông ta đỏ nẻ vì gió, tóc mỏng đã ngả bạc. Ông ta dùng một mảnh gỗ ván dài làm gậy chống; nó được mài nhẵn bóng bởi những con sóng nhưng nhăn nheo hệt như bàn tay đang nắm nó.
“Ông là trưởng làng?” Tôi hỏi.
“Không, thưa nữ hoàng. Lo Chato mới là trưởng làng, nhưng hiện đang đi vắng. Có lẽ đến tối ông ấy mới quay về.”
Mặt đất dưới chân tôi như chao đảo, và tôi tóm lấy cánh tay Hector để đứng vững.
Tôi từng nghe thấy cái tên này rồi. Lo Chato chính là người thú đã thẩm tra tôi khi tôi là tù nhân ở doanh trại địch. Mãi đến nhiều tháng sau tôi vẫn có thể mường tượng hắn rõ mồn một – làn da nhẵn như da em bé, đôi mắt mang màu xanh Thánh thạch, mái tóc trắng dài mượt. Tôi rùng mình nhớ tới cách di chuyển uyển chuyển bất thường, giọng nói mang âm gió khiến tôi không sao quên được ấy. Tôi tưởng mình đã giết chết hắn rồi.
Liệu có khả năng tôi bắt gặp kẻ thù cũ chỉ vài tuần sau khi một trong những đạo hữu của hắn tự thiêu trong thành phố của tôi không?
Tôi hỏi ông lão, “Ngôi làng này đã tồn tại bao lâu rồi?”
“Gần lâu bằng chính Brisadulce. Nhưng chúng tôi còn sinh hoạt và làm ăn trên mặt đất nữa, tại khu Wallows. Chúng tôi là những thần dân trung thành của nữ hoàng.”
“Ta rất mừng được hay tin này.” Tôi có rất nhiều thắc mắc. Nhưng chân bắt đầu bủn rủn, và tôi bắt đầu khó thở. Tôi cần thối lui trước khi để lộ tình trạng sức khỏe suy yếu trước những con người này. “Khi nào Lo Chato trở lại, hãy bảo ông ta tới cung điện trình diện. Sẽ không ai làm hại ông ta hết. Ta chỉ muốn nói chuyện với ông ta mà thôi. Ta sẽ nhắn để đại quản gia đưa ông ta vào gặp ta ngay.”
Ông lão cúi đầu theo cách tôi đoán là cúi chào trong khả năng cơ thể cho phép. “Nữ hoàng cần biết rằng ông ta sống khá khép kín, kín đáo. Ông ấy sẽ e ngại lời triệu của ngài.”
“Vậy ông phải thuyết phục ông ta. Ta hẳn sẽ vô cùng thất vọng nếu ông ta không tới.” Tôi dừng lại đủ lâu để nhìn thấy vẻ hiểu ra ẩn ý của tôi trên những gương mặt dưới kia. Sau đó tôi chúc họ một ngày tốt lành và ra hiệu cho đoàn tùy tùng rút lui.
“Đồ độc tài!” Có người hét lên sau lưng tôi, và tôi quay phắt lại.
Đám dân làng ngượng nghịu nhúc nhích, tránh ánh mắt tôi, và tôi không rõ kẻ táo gan kia là ai. “Fernando,” tôi siết tay, nói. “Bắn tên cảnh cáo.”
Anh thả tên ngay tức thì. Nó cắm thịch xuống đất, ngay sát chân ông già nọ. Đuôi tên gắn lông vũ rung rung, và đám đông co rúm lại.
“Chớ,” tôi nói, “thêm tội nổi loạn vào những tội lỗi của các ngươi.”
Tôi quay gót và trở vào địa đạo, Hector và Ximena ngay sau lưng. Trong chuyến trở về, tôi hơn một lần suýt ngã, vì mải suy nghĩ. Đây là một nhóm nhỏ, có lẽ chỉ chừng sáu mươi người. Sao lại ít vậy? Bí mật về ngôi làng này lại được bảo vệ kỹ càng thế sao? Họ có lên gờ đá và đi theo đường này tới lăng mộ không? Gã táo gan kia đã phát biểu cảm xúc của toàn bộ dân làng? Hay là của cả kinh thành?
Điều khiến tôi trăn trở nhất là về người đàn ông bí ẩn mang tên Lo Chato. Đấy rất có thể là kẻ đã ra tay ám sát tôi. Và tôi đã mời hắn tới nhà mình. Nhưng Belleza Guerra có cả một chương về nghệ thuật giữ kẻ thù gần bên mình, và dù lo lắng, tôi vẫn biết mình đang làm điều đúng đắn.
Khi chúng tôi tới lăng mộ của Alejandro, hơi thở của tôi trở nên gấp gáp và tôi đau dọc một bên sườn. Tôi không muốn gì hơn là một ly rượu và được ngủ trọn ngày.
Fernando xin phép ở lại. “Tôi muốn xem xét chốn này một chút,” anh nói, chỉ cái hố chúng tôi vừa từ đó đi ra. “Tôi muốn xem làm cách nào để mở cửa địa đạo từ bên dưới, để xem nó có hay được sử dụng chăng.”
“Được. Từ bây giờ chúng ta phải để mắt tới nó.”
“Tôi sẽ lo việc này.”
“Ta sẽ cho người mang đồ ăn sáng tới. Không phải từ trại lính.”
Anh cúi chào đúng quy cách, nhưng môi hơi nhếch lên.
Khi đến phòng, tôi không buồn thay sang váy ngủ. Ximena giúp tôi tháo giày, rồi tôi nới dây quần và gục xuống chiếc giường mới được Mara thay chăn đệm thơm phức. Chúng vẫn còn ấm, và tôi vùi mặt vào gối, ngửi thấy mùi nước hoa hồng thoang thoảng. Thật lòng mà nói, chiếc giường của tôi là nơi tuyệt vời nhất trên thế giới này.
Tôi đang mơ màng ngủ thì một suy nghĩ làm tôi choàng tỉnh. “Hector?” Tôi chớp mắt để xua cơn buồn ngủ.
“Đây,” anh nói từ dưới chân giường.
“Chúng ta có người ở Wallows không? Tôi muốn xác định vị trí hang động nọ từ trên mặt đất, tìm hiểu tất cả những gì chúng ta có thể biết về nó.”
“Tôi sẽ lo liệu chuyện đó, thưa nữ hoàng.”
“Và đừng gọi tôi là nữ hoàng khi chỉ có chúng ta với nhau. Tôi thấy ghê răng lắm.”
Anh gật đầu với vẻ nghiêm nghị cố tình. “Tôi rất ghét cô làm hỏng răng vì tôi.”
“Nếu có chuyện đó, tôi không còn lựa chọn nào khác là noi gương tướng quân và ra lệnh xử trảm anh.” Tôi phẩy tay và nói, “Chặt đầu hắn!” Sau đó mặt tôi đỏ bừng vì phút bốc đồng của mình.
Nhưng Hector chỉ hắng giọng cười, và tôi cảm nhận điều đó tới tận đầu ngón chân. Anh dịu dàng nói, “Mạng sống của tôi luôn thuộc về cô, Elisa.”
Tứ chi tôi ngứa râm ran còn má đỏ bừng khi chúng tôi chăm chú nhìn nhau.
Tôi trấn tĩnh. Anh đang nói về nhiệm vụ của anh. Tất nhiên mạng sống của anh thuộc về tôi. Anh là cận vệ của nữ hoàng, đã thề sẽ xông tới chắn tên cho tôi để cứu mạng tôi.
Tôi cẩn trọng nói, “Anh là người bạn tốt, Hector. Và tôi mừng vì có anh bên cạnh.”
Anh cụp mắt xuống, và ngực phập phồng thở ra một hơi dài. “Luôn luôn là vậy.”