Ngày đã về chiều muộn, và hoàng hôn tỏa nắng ấm vào phòng tôi qua cửa sổ ban công. Ximena và tôi ngồi khoanh chân trên giường, xung quanh là la liệt những cuộn giấy da dê đã bạc màu và những tờ giấy đã mốc – những bản thiết kế kiến trúc lâu đài, lấy từ văn khố tu viện theo lệnh của tôi. Chúng tôi đã xem xét chúng hàng giờ liền.
Một cái cho thấy việc phục dựng phòng chầu, cái khác là cơi nới tu viện, nhưng không có bản vẽ nào cho thấy bằng chứng về những mật đạo hoặc ngôi làng dưới lòng đất. Tôi chán nản gạt chúng sang bên.
Có thứ gì đó rơi ra khỏi một cuộn giấy – một mẩu giấy da cừu thượng hạng, mép đã nhuốm đen. Tò mò, tôi dùng móng tay cái bóc dấu xi, và ngón tay tôi dính gì đó đen đen – là mốc hay mủn giấy – khi mở nó ra đặt trên đùi.
Đó là bản đồ Joya d’Arena. Orovalle quê hương tôi còn chưa xuất hiện – thung lũng xinh đẹp nằm về phía bắc dãy Hinder chưa được tìm ra vào thời điểm người ta vẽ nên tấm bản đồ này. Vậy có nghĩa là nó phải chừng 500 năm tuổi, một kho báu vô giá đang bị tôi đưa ra trước nắng và gió. Tôi nên đưa nó trở về văn khố ngay lập tức để được bảo quản an toàn. Nhưng tôi không rời mắt nổi.
Lãnh địa miền Đông ở bên kia sa mạc – hiện là vương quốc Basajuan, nằm dưới sự trị vì của Cosmé bạn tôi – trong bản đồ được ghi là “các lãnh thổ”. Chỉ lãnh địa miền Nam và Bắc được xác định rõ ràng. Tôi giật mình nhận ra nó khá giống với quốc gia của tôi ngày nay. Vùng đất tốt tươi Joya d’Arena từa tựa hình đồng hồ cát – phình ra ở hai đầu, còn chỗ thắt nhỏ ở giữa là kinh đô của tôi, nơi gặp gỡ giữa sa mạc và đại dương.
Nhưng Joya d’Arena không còn đơn độc nữa. Giờ tôi có đồng minh, bảo vệ biên giới của tôi từ hai phía – cha và chị tôi ở mạn bắc, Cosmé ở phía đông. Vậy nên tôi thấy an toàn hơn chút ít.
“Bầu trời của vú, có điều này vú phải nói với con,” Ximena bảo.
Tôi ngước nhìn bà vú. Có vết bẩn trên má phải của bà, và những sợi tóc bạc rủ xuống khỏi búi tóc vốn thường gọn gàng.
Bà hít một hơi sâu, như để thu thêm can đảm. “Vú đã điều tra được chút ít về Thánh thạch. Từ lúc con hôn mê.”
Tôi ngồi nhanh dậy, và vài cuộn giấy lăn khỏi giường. “Và?”
Bà vuốt ngón trỏ nhăn nheo dọc tờ giấy da dê trên đùi. “Con biết lời sấm truyền trong Afflatus của Homer, rằng ‘Người đó không thể biết điều gì đang chờ đợi nơi cánh cổng của kẻ thù, và người đó được đưa đi, như con lợn bị đưa tới lò mổ, vào vương quốc ma thuật’ chứ?”
“Cha Alentín cho rằng con đã hoàn thành lời sấm truyền ấy khi bị Invierne bắt giữ.” Tôi nói đều đều và không cảm xúc, sợ bà sẽ đổi ý không nói cho tôi nữa. Ximena đã mất nhiều năm che giấu tôi những vấn đề liên quan tới viên đá trên người tôi. Bà tin đó là ý Chúa. Tôi biết bà đã phải cố gắng thế nào để quay lưng với đức tin của mình.
“Vú lại không nghĩ như vậy.”
Tôi nuốt nước bọt. “À.” Tôi vẫn nuôi hy vọng rằng mình đã xong việc với “vương quốc ma thuật”, rằng làm nữ hoàng là sự phụng sự lớn nhất của tôi với Chúa.
Bà hất tờ giấy trên đùi xuống và đứng lên. “Từ ‘cánh cổng’ khiến vú suy nghĩ mãi,” bà vừa nói vừa đi đi lại lại nơi chân giường. “Trong Thánh ngữ, nó là cách dùng cổ đôi khi được dịch thành ‘con đường’. Như ‘con đường hẹp sẽ khôi phục tâm hồn,’ trong Scriptura Sancta.
“Vú nói tiếp đi.”
“Đấy cũng chính là từ chúng ta thấy được khắc trong địa đạo dưới lăng mộ.”
Tôi nói khẽ, “Cánh cổng dẫn đến sự sống rất nhỏ hẹp nên hiếm người tìm ra.” Tôi vòng tay ôm mình. “Con không chắc vú định nói gì nữa,” tôi cất tiếng, nhưng tim đập rộn, còn tứ chi bủn rủn. Bà sắp nói một điều gì đó, một điều rất quan trọng.
“Vú đã tìm hiểu về từ đó hồi còn là người phụ trách văn thư. Vú đã nghiên cứu cả bốn thánh thư để xem cách dùng từ đó. Nó xuất hiện đúng mười lần. Năm lần, nó nhắc tới cánh cổng – hoặc con đường – của kẻ thù. Nhưng năm lần khác, nó nhắc tới một điều tích cực. Như sự sống, phục hồi, hoặc bình phục.” Ximena dừng lại và nắm một chân giường. Chúng tôi nhìn nhau chăm chăm, và bà bảo, “Thế nào mà mỗi cách dùng lại xuất hiện đúng năm lần nhỉ?”
Tôi nhún vai. “Đó là con số hoàn mỹ. Một điều sẽ xảy ra đúng năm lần nếu Chúa muốn như vậy.”
“Chính xác. Vậy Ngài thực sự muốn điều đó. Những chuyện thế này không tình cờ xảy ra.” Bà tiếp tục đi đi lại lại, và ánh mắt trở nên xa vắng. “Vú luôn cho rằng những câu ấy còn mang một tầng nghĩa ẩn dụ khác. Vú nghĩ con đường khôi phục linh hồn là cách một người sống. Có thể là con đường của đức tin. Nhưng nếu…” Bà hít một hơi sâu. “Nhưng nếu đó là nơi có thật thì sao? Nếu cả hai đều là địa điểm có thật thì sao?”
Thánh thạch rung lên xác nhận, khiến sống lưng tôi ngứa râm ran. “Cả hai, đều là địa điểm có thật,” tôi thì thầm. “Cánh cổng của kẻ thù, và cánh cổng dẫn đến sự sống.”
“Vú không biết nữa, bầu trời của vú ạ. Nhưng vú sẽ nghiên cứu.”
“Có lẽ cha Nicandro sẽ giúp được. Cha từng âm thầm giúp con rồi. Hơn nữa, cha giỏi Thánh ngữ, và con hoàn toàn tin tưởng ông ấy.”
Bà gật đầu. “Vú sẽ bàn với ông ấy xem sao. Đằng nào bây giờ vú cũng cần xem xét khu vực cấm trong văn khố tu viện.”
“Ximena,” tôi nói khẽ. “Nếu đó là nơi có thật thì sao? Nếu con vẫn phải tới đó thì sao?”
Một năm trước, bà hẳn sẽ nói những lời vô nghĩa – hoặc dùng món bánh nướng – để an ủi tôi. Nhưng bây giờ bà chỉ nhìn tôi, đôi mắt đen nhỏ tràn ngập quyết tâm, có khi còn hứng khởi nữa. Tôi rùng mình.
Tiếng thủy tinh vỡ. Có gì đó rơi xuống sàn.
Ximena chạy vội vào buồng trung. Tôi vội vã theo sau.
Mara đang gập đôi người bên bồn tắm, tay ôm bụng. Vài đồ trang điểm nằm ngổn ngang dưới sàn. Hơi nước mù mịt và không khí ngòn ngọt mùi nước hoa hương lan của tôi.
“Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi. “Sao thế?”
“Tôi… đang giũ váy cho cô… vết…”
“Vết sẹo của cô ấy,” Ximena nói. “Nó lại rách ra rồi.”
Vết sẹo của Mara, có từ hồi một tay người thú thiêu cô. Mara đã lao vào chắn đường đám pháp sư Invierne để tôi có thời gian dùng Thánh thạch làm phép. Cô thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Kể từ đó đến nay, tôi chẳng mấy khi để ý tới vết thương của cô.
Tôi hét lên ra lệnh cho một người lính đi tìm ngự y Enzo.
Mara ngồi xuống sàn, chân duỗi thẳng. Ximena nới dây áo để lộ áo lót trắng lốm đốm máu tươi. Rồi bà cẩn thận vén áo lót lên khỏi bụng cô.
Tôi không thể ngăn mình thở ra một hơi dài. Một vết sẹo xấu xí, to bằng bốn ngón tay, chạy ngoằn ngoèo ngang bụng, qua rốn cô. Máu đang ứa ra dọc miệng vết thương.
“Lần này sâu đấy,” Ximena nói, nhẹ nhàng dùng gấu áo lót của Mara chặm vết thương. “Nhưng nó sạch và thẳng. Sẽ dễ khâu thôi.”
“Lần này?” Tôi hỏi. “Chuyện thường xảy ra sao?”
“Tôi quên bôi thuốc mỡ,” Mara hổn hển vừa thở vừa nói.
“Thuốc mỡ nào? Ở đâu?” Tôi hỏi.
“Cái lọ nhỏ trên giá cạnh giường Mara ấy,” Ximena nói, và tiếp tục lau máu.
“Con sẽ quay lại ngay.” Tôi vội chạy vào phòng hai người.
Nó nhỏ hơn phòng riêng của tôi, với một ô cửa sổ trên cao, bốn chiếc giường tầng, và một cái giá bên cạnh mỗi giường để đặt vật dụng cá nhân. Một vài chiếc váy giản dị được treo ở móc trên tường dưới cửa sổ, và bên cạnh chúng là một cái bàn viết với vài cây nến đã cháy hết nửa. Một chốn ở quá ư chật hẹp. Tôi không thể tưởng tượng nơi này sẽ ngột ngạt thế nào nếu tôi chấp thuận lời yêu cầu của đại quản gia là có thêm nữ tì.
Tôi thấy có một cái lọ sành tròn nho nhỏ trên giá bên cạnh giường Mara, và cầm lấy. Chưa cần mở nắp, tôi đã ngửi thấy mùi dầu khuynh diệp nồng nàn.
Đang vội chạy ra buồng trung thì tôi giẫm phải một vật sắc nhọn. Tôi suýt làm rơi lọ khi hơi nghiêng người để giữ thăng bằng. Vì vậy bụng tôi đau nhói, nhưng tôi giữ không bị ngã. Tôi nhìn xuống xem vật gì đã ngáng chân mình.
Đó là một trong những viên Thánh thạch cũ, được tách khỏi chủ nhân đã khuất núi từ lâu của nó. Sau khi được dùng để khuếch đại sức mạnh từ viên Thánh thạch của tôi hòng đánh bại đám người thú, tôi đã quăng nó cùng những người anh em đã khánh kiệt của nó vào hộp nữ trang trên bàn trang điểm. Chắc Mara làm đổ nó ra ngoài.
Tôi nhón ngón trỏ và ngón cái cầm nó lên. Nó mang màu xanh sẫm giống như một vết bầm và gồ ghề sau khi bị dùng hết năng lượng. Nhưng dưới luồng ánh sáng trong buồng trung, tôi thoáng thấy chút ánh sáng, một hạt hoàn mỹ chưa bị động tới nằm sâu bên trong viên đá quý đã vỡ.
Tôi đưa cái lọ cho Ximena, đặt viên Thánh thạch đã nứt lên bàn trang điểm, và cúi đầu nhìn thị nữ của mình.
“Cũng không đau lắm đâu,” Mara trấn an tôi. “Tôi bị bất ngờ nên mới thế thôi.”
“Cô ấy dũng cảm lắm,” Ximena nói. “Vết thương khá sâu, và cô ấy không nên nhúc nhích trước khi ngự y Enzo tới. Thuốc mỡ sẽ giữ ẩm da.”
Có người gõ cửa, thế là tôi nhún vai xin lỗi Ximena và Mara, vội trở lại buồng ngủ. Một người lính đang nhòm qua mắt thần. “Là đại quản gia, báo có chuyện gấp gì đó,” anh ta báo cáo.
Ông ta chọn đúng thời điểm không thể nào tệ hơn. “Hãy cho ông ta vào.” Tôi vuốt thẳng cái quần nhăm nhúm, ước gì hôm nay mình biết lựa thời gian tắm táp thay quần áo.
Đại quản gia thật trang nhã, với chiếc áo gi-lê nhung mặc ngoài áo cánh có viền đăng ten rộng. Nhưng như thường lệ, quần áo ông ta quá chật, khiến nút áo bụng như sắp bắn ra. Ông ta cúi chào kiểu cách.
“Đứng thẳng lên đi.”
“Thứ lỗi cho sự đường đột này, thưa nữ hoàng.” Ông ta nhìn đống giấy tờ lăn lóc trên cái giường bừa bộn. “Tôi biết ngài có bảo là không tiếp ai, nhưng đoàn sứ thần của nữ hoàng Cosmé xứ Basajuan vừa tới. Tôi đã đưa họ tới phòng thượng khách rồi ạ. Họ tỏ lòng mong muốn được gặp nữ hoàng sớm nhất có thể.”
Sứ đoàn của Cosmé! Tôi hy vọng là cô đã cử bạn bè tới, những người yêu dấu tôi chưa hề được gặp lại từ hồi sống nơi sa mạc. “Ông đã quyết định sáng suốt khi thông báo cho ta. Hỏi xem họ có muốn ăn uống gì chăng. Ta sẽ tới đó ngay khi có thể.”
Ximena xuất hiện tại ngưỡng cửa buồng trung, lọ thuốc mỡ của Mara vẫn cầm trong tay.
Đại quản gia lại cúi đầu. “Vâng, thưa nữ hoàng. Nếu ngài đã sẵn sàng tiếp khách, vậy chúng ta có thể bàn tới lịch trình của ngài chứ ạ? Vài tiểu thư muốn được hầu hạ ngài – một nữ hoàng không thể nào chỉ có hai người tì nữ! Và tôi e rằng có rất nhiều người muốn được làm hoàng tế; bá tước Tristán xứ Selvarica làm đủ cách để được gặp mặt ngài. Có một cuộc nổi loạn trong hẻm thương nhân ngày hôm qua, vì việc thiếu hụt lúa mì, vậy nên thị trưởng muốn bàn chuyện tăng lính gác ở đó và tại Wallows…
Tôi phẩy tay ra hiệu cho ông im lặng. “Để sau. Ông hãy đi tiếp khách giúp ta.”
Ông ta bỏ đi không nói thêm lời nào. Tôi nhíu mày nhìn theo, cảm giác khó chịu cuộn trào ruột gan. Một cuộc nổi loạn khác. Tôi tính rằng sẽ triệu ông ta tới phòng ngay khi xong chuyện với đoàn sứ thần.
“Con cần tắm rửa và thay đồ,” Ximena nói.
“Không kịp tắm đâu ạ,” tôi nói và đi về phía bà.
“Con không thể tự mặc đồ khi bị thương như vậy!”
Tôi lấy cái lọ khỏi tay bà. “Con sẽ bôi thuốc mỡ trong lúc vú giũ và tháo dây váy.” Chất thuốc bên trong đặc và có màu nâu, gần giống như thứ hỗn hợp giữa sáp và thạch chà là.
Ximena bóp vai tôi và cầm cái váy Mara làm rơi xuống nền nhà lên.
Tôi lúi húi bên Mara và nhúng hai ngón tay vào lọ.
“Không được đâu, Elisa,” Mara phản đối. “Cô là nữ hoàng. Cô không nên…”
“Thôi nào, im đi. Tôi có phải bôi tránh vết thương không?”
“Không. Nó cũng được khử trùng. Nó hơi buốt, nhưng… tôi sẽ ổn nếu cô muốn đợi…”
Tôi khiến cô im lặng bằng cách chấm thuốc vào đúng vết thương. Cô xuýt xoa.
Da cô sờ là lạ dưới đầu ngón tay tôi, quá gợn và cứng, chẳng hề giống da người chút nào. Nhưng nó có độ ấm như da bình thường và cũng dễ chảy máu. Tôi nhẹ nhàng thoa thuốc dọc miệng vết thương, vờ như không nhận thấy nó hòa cùng máu đang ứa ra. Tôi không muốn sợ hãi, nên vừa làm vừa nghĩ, Mara bị thế này là vì mình. Cô ấy đã cứu mạng mình.
Mara không kêu đau, nhưng đầu cô ngửa ra dựa vào tường trong lúc mắt nhắm nghiền.
“Váy của con xong rồi,” Ximena nói.
Tôi bóp tay Mara, rồi rửa tay. Ximena nhanh nhẹn mặc váy cho tôi rồi bảo tôi tới bên cạnh giường. Tôi vẫn chưa bình phục hẳn nên khó có thể cúi người chạm chân, nên Ximena xỏ tất giùm tôi. Trong lúc đó, tôi tháo trâm cài và gỡ bím tóc.
Nghĩ đến Mara đang ngồi một mình trong buồng trung, tôi bảo, “Đại quản gia nói đúng, phải không? Con cần nhiều hơn hai người hầu.”
“Được chăm sóc con là nhiệm vụ hàng đầu của vú, bầu trời của vú. Nhưng có những lúc, khi chúng ta phải nhanh tay nhanh chân hoặc khi gặp chút rắc rối, như hôm nay chẳng hạn, thì đúng, có thêm một người nữa sẽ tốt hơn. Hai người nữa cũng được.” Bà xỏ cho tôi đôi dép da mềm.
Thế giới của tôi đã quá chật chội với cả tá Ngự lâm quân và những vị khách thường xuyên viếng thăm rồi. Tôi thích được tận hưởng chút riêng tư tại buồng trung chỉ với hai người phụ nữ, những người bạn thân thiết của tôi. Tôi không thể tưởng tượng nổi cuộc đời mình có thêm một người lạ vào nữa. Nhưng khi Ximena lấy một lớp tóc và cố định bằng xước ngọc trai, tôi nói, “Con sẽ sớm nói chuyện này với đại quản gia.”
Bà hôn lên má tôi. “Con sẽ làm điều gì tốt nhất.” Bà giúp tôi đứng dậy.
“Vú sẽ ở đây với Mara chứ?”
“Vú chắc chắn dù không có vú thì cô ấy vẫn ổn.”
Tôi mở miệng định cao giọng nói rằng đó là lệnh, chứ không phải câu hỏi. Nhưng cuối cùng, tôi quyết định nói nhẹ nhàng hơn. “Con sẽ thoải mái hơn nếu biết có vú ở cùng cô ấy.” Và tôi quay lưng, ra hiệu cho các binh lính tháp tùng.
Chúng tôi ra hành lang, và thế là tôi ở giữa một đội ngũ những con người mặc đồ da và đeo kiếm.
Huân tước Hector vội bước tới khi chúng tôi đi qua khúc ngoặt đầu tiên. Các lính gác đổi đội hình để anh đi cạnh tôi. “Tôi vừa nghe về sứ đoàn,” anh bảo. “Cô thấy thế nào?”
“Khỏe khoắn, vui vẻ và háo hức được gặp lại bạn cũ.” Chúng tôi đi xuống một cây cầu thang rộng, và tôi vui vẻ quàng tay anh đưa ra.
“Cứ nghĩ Cosmé là nữ hoàng làm tôi thấy là lạ,” anh nói. “Tôi vẫn mường tượng cô ấy đội mũ người hầu.”
Nghĩ đến người bạn này làm tôi nở một nụ cười thoải mái. “Và tôi vẫn nhớ cô ấy đi giày da và mặc áo choàng vùng sa mạc, chăm sóc người bị thương và dạy tụi nhóc bắn ná.”
“Cô ấy rất đa tài,” anh bảo.
“Quả vậy.” Rất nhiều lần tôi ước mình chỉ bằng nửa Cosmé cũng đủ.
Khi tới phòng thượng khách, Ngự lâm quân tránh đường cho tôi tự gõ cửa. Một cậu thanh niên ra mở cửa, và tôi không nhận ra cậu tới khi gương mặt cậu bừng sáng vì thấy tôi. “Là nữ hoàng Elisa,” cậu ngoái đầu hét to thông báo.
Tôi nắm vai cậu. “Em cao lên nhiều đấy, Matteo.”
Đôi mắt cậu mở lớn khi cậu bước sang bên, và chúng tôi vừa đi qua cậu thì cậu vội liến thoắng, “Tháng sau em mười bốn tuổi rồi!”
Căn phòng này rộng bằng phòng tôi, nhưng khác ở chỗ có hai chiếc giường lớn. Dù chỗ tắm và thay đồ được ngăn bằng một tấm rèm nhung, nhưng tôi vẫn thấy được gờ tủ quần áo và một cái bồn gỗ có tay cầm.
Một giọng nói quen thuộc cất lên, “Xin chào, Elisa,” khi một người kéo rèm sang.
Tôi nghẹn ngào khi nhìn thấy gương mặt tươi cười của cha Alentín, vị tu sĩ một tay, thích nổi loạn, đã chỉ dạy cho tôi nơi sa mạc. Ông mặt chiếc áo chẽn và áo choàng đã bạc màu theo đúng kiểu tu sĩ, và như thường lệ, ống tay áo rỗng không được buộc gọn ở một bên vai.
Cha Alentín ôm lấy tôi. “Ôi, cô gái thân mến của cha,” ông nói. “Đã lâu lắm rồi.” Ông ôm tôi rất tự nhiên, như thể tôi chỉ là một cô thiếu nữ chứ chẳng phải nữ hoàng, và tôi thấy ấm áp vô cùng.
Tôi ôm ông, hít hà mùi bếp lửa hòa cùng mùi bụi trên tấm áo choàng len của vị tu sĩ già. Tôi phải nhắm chặt mắt và nuốt khan. “Con cũng rất mừng được gặp lại cha,” tôi nghẹn ngào.
Ông thì thầm, “Mỗi ngày cha đều cầu nguyện cho con.”
Tôi lùi ra sau và đứng cách ông một cánh tay, nhưng vẫn không buông. “Con cũng vậy! Cosmé thế nào rồi?”
“Đang đánh vật với ngân khố có hạn để tạo dựng một chính phủ vững vàng và xây dựng một doanh trại bên biên giới với Invierne. Gào thét quát tháo bất cứ ai dám cản đường mình. Đặt đám quý tộc vào đúng vị trí của họ.”
“Vậy là, vẫn như trước.”
“Cô ấy gửi tình yêu đến con. Nói cho ngay, con bé bảo là “lòng quan tâm” nhưng cũng như nhau ấy mà.”
Tôi cười. Từng có thời Cosmé chẳng thèm quan tâm đến tôi.
Vẻ mặt Alentín chuyển sang nghiêm nghị. “Elisa, còn chuyện này mà con cần biết.”
“Vâng?”
Ông quay ra chỗ tắm và gọi lớn, “Giờ ra đi.”
“Sao?” Tôi nói. “Cha đang gọi ai…”
Một chàng trai bước ra từ sau tấm rèm và cổ họng tôi nghẹn thít lại. Anh ta cao kều và gầy nhẳng như cây sậy, với quai hàm xương xương và cái mũi khoằm khiến anh ta đẹp trai theo kiểu khắc khổ. Anh ta đeo miếng da đen bịt một bên mắt.
Đó là Belén.
Kẻ phản bội. Người đã bán đứng tôi cho Invierne. Anh ta đã suýt phá hỏng mọi thứ mà chúng tôi chiến đấu để giành lấy, vì anh ta lầm tin rằng mình đang làm theo ý Chúa.
Anh ta rụt rè nói, “Xin chào, Elisa.”
Tôi không biết phải nói gì. Thấy anh ta làm lòng tôi đau nhói, vì trước khi phản bội, anh ta đã từng là bạn tôi. Và một khi nhận ra lỗi lầm, anh ta đã liều mạng để báo cho tôi biết về kế hoạch của người thú.
Nhưng tôi không thể nói chuyện thân tình nổi. “Sao anh ở đây, Belén?”
Anh ta mở miệng nhưng đổi ý, không nói ra điều định nói nữa. Thay vào đó, anh ta lắc đầu.
Alentín đưa tay bóp vai Belén. “Chàng trai này thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng cậu ấy vẫn mang tiếng xấu ở Basajuan, chắc con cũng tưởng tượng được. Triều đình muốn xử tử cậu ấy, nhưng Cosmé không muốn thấy cậu ấy chết. Con bé tính sử dụng khả năng do thám của Belén, đưa cậu ấy xâm nhập lãnh thổ địch. Chúa ơi, những lần trở lại thành phố báo cáo tình hình của cậu ấy càng lúc càng gặp khó khăn. Có một cuộc ẩu đả trong chuồng ngựa…”
“Nhưng sao lại đưa anh ta tới đây? Sao lại tới chỗ con?”
“Vì tôi muốn vậy,” Belén nói. Anh ta dám nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi cứ nhìn qua nhìn lại con mắt chột và con mắt lành trước khi quyết định nhìn vào sống mũi của anh ta. “Scriptura Sancta nói rằng đền tội là ngọn lửa thần thánh và trong sạch tẩy rửa linh hồn. Và tôi muốn làm vậy: đền tội, xin được phục vụ cô bằng mạng sống của mình.”
Tôi chăm chú nhìn anh ta.
Anh ta nói khẽ, “Xin cô đấy, Elisa.”
“Để tôi suy nghĩ thêm.”
Anh ta vội giấu vẻ thất vọng. “Cảm ơn cô.”
Tôi đột nhiên muốn đạp đổ cái gì đó, hoặc đánh ai đó. Cosmé không nên đưa Belén tới chỗ tôi khi chưa hỏi ý tôi. Alentín thừa biết không nên hùa theo. Nhưng bây giờ tôi buộc phải chấp nhận sự hiện diện của Belén tại đây, vì anh ta theo sứ đoàn tới.
Triều đình của tôi vốn đã chẳng thiếu những rắc rối. Bị đồng minh và bạn bè của mình thao túng còn gì xấu hơn nữa đây? Khi bị họ đưa rắc rối của họ cho tôi? Tôi lạnh lùng lườm cả hai. “Từ lúc này, hai người phải gọi tôi là nữ hoàng.”
Cả hai cúi đầu.
“Vâng, thưa nữ hoàng,” kẻ phản bội nói.
Với Alentín, tôi bảo, “Cha giữ vị trí sứ giả chính thức chứ?” Nhưng tôi đã biết đáp án; đó là cách duy nhất để đảm bảo tính mạng cho Belén.
“Ừ,” ông nói, và đột nhiên gượng gạo. “Nữ hoàng Cosmé muốn con biết chuyện đã xảy ra trong khu chợ chính ở Basajuan và muốn nghe quan điểm của con. Nói ngắn gọn thì một người thú xuất hiện, tuyên bố rằng con tự nộp mình cho Invierne là sự hy sinh tự nguyện, rồi tự thiêu.”
Tôi trố mắt nhìn ông. “Ở đây cũng xảy ra chuyện tương tự!”
Ông nghiêm nghị gật đầu. “Đến thành phố này chưa đầy hai phút cha đã biết việc ấy rồi.”
Nhưng tôi chẳng nghe rõ tiếng ông vì tai như ù đi. Hai sự việc tương tự xảy ra liên tiếp cho thấy một sự nghiêm túc có kế hoạch, nguy hiểm chết người. Điều gì quan trọng tới mức có hai kẻ dám tử vì đạo như vậy? Chúng muốn gì ở tôi?
Ngươi sẽ biết cánh cổng của kẻ thù.
Nhíu mày, tôi nói, “Belén này?”
“Vâng, thưa nữ hoàng.”
“Dù có thuộc sứ đoàn hay không, nếu tôi cảm thấy anh định làm hại tôi hay thần dân của tôi, tôi sẽ giam giữ và phán anh tội làm phản. Đấy là nếu Hector không giết anh trước.”
Dù anh ta có trả lời hay không, tôi không biết và cũng chẳng quan tâm, vì tôi đã quay gót đi ra cửa. Ngự lâm quân bao quanh tôi.
Tôi dừng ở ngưỡng cửa và nói với Alentín, “Lễ thánh được tổ chức vào ngày mai trong tu viện. Cha, Belén và Matteo có thể tham dự.”
Mắt ông mở to. “Tuyệt vời, Eli… thưa nữ hoàng.”
Tất cả đều nhìn tôi như một người xa lạ, và cảm giác trống trải khó chịu lớn lên trong ngực tôi. Tôi gần về đến phòng thì nhận ra đó là cảm giác cô độc.