Tôi mặc kệ cha Alentín và phái đoàn của nữ hoàng Cosmé đủ lâu mà không gây mất lòng. Điều này đặc biệt gây phật ý họ, khi mà hiện giờ cha đang âm thầm giúp Ximena nghiên cứu Thánh thạch. Vậy nên tôi quyết định tổ chức một bữa tối nho nhỏ trong phòng ăn riêng, hy vọng được thoải mái giữa bạn bè mình, nghe họ kể chuyện và lại thấy dễ chịu khi có những người thân mến.
Nhưng đại quản gia nhất quyết rằng tôi phải mời thêm bá tước Tristán và anh tùy tùng bảnh chọe, cùng phu nhân Jada, bởi có lẽ tôi sẽ cần phiếu Ngũ Trưởng lão của cô ấy nếu không sớm tìm được thành viên mới cho vị trí còn bỏ trống. Ông ta nói đúng – đó là nghệ thuật. Nhưng sự hào hứng của tôi đã bị nỗi hoảng hốt thế chỗ. Tôi đã rất hy vọng có một buổi tối được chiều lòng mình mà không phải làm nữ hoàng.
Tôi đến muộn nhất, vì không thể chịu được chuyện phải nói chuyện phiếm trong lúc chờ dọn đồ ăn. Người Joya d’Arena thích dùng bàn thấp với những chiếc nệm ngồi to tướng đặt xung quanh. Đây không phải lần đầu tiên tôi tính ban chiếu chỉ, ra lệnh sử dụng bàn và ghế cho thích hợp.
Hector và Ximena ngồi hai bên tôi. Tôi nhíu mày khi nghĩ rằng mình còn chẳng thể tận hưởng một bữa tối nho nhỏ ấm cúng mà không có họ bảo vệ.
Tôi gật đầu chào cha Alentín và Belén, ngồi ở đầu bên kia bàn. Phu nhân Jada ngồi đối diện, và sau khi nồng nhiệt chào đón tôi, cô ta ngay lập tức nhìn chằm chằm bá tước Tristán bên cạnh. Nhưng bá tước không để ý, vì ánh mắt anh ta dán vào tôi từ lúc tôi bước vào phòng và chẳng thèm dời đi lấy một li.
Tôi thở dài, cầm ly rượu quả tầm xuân, biết trước mình sẽ có một buổi tối dài tẻ nhạt. Nếu chỉ có Alentín và Belén, tôi sẽ biết chắc chắn phải nói gì, chính xác phải cư xử thế nào. Tôi thấy mình chẳng còn giận họ nhiều, và chỉ háo hức được gặp người quen.
Mừng là bá tước Tristán là người bắt chuyện trước. “Bà Ximena, việc nghiên cứu đến tối muộn trong tu viện thế nào?”
Mọi người sững sờ. Belén trở nên thâm trầm và thu mình lại như một đám mây dông.
Bá tước hoảng hốt nhìn xung quanh. “Tôi đã nói gì đó không đúng sao? Gì đó không phải à?”
Phu nhân Jada nói, “À, chắc chắn là không có gì đâu. Chúng ta chỉ cần làm quen với nhau là được.” Cô ta quay sang tôi. “Phải không, thưa nữ hoàng?”
Giọng tôi đều đều đượm mùi chết chóc khi tôi nói, “Bá tước hãy cho ta biết vì sao anh biết về chuyện nghiên cứu của Ximena đi.”
Anh ta và tùy tùng bối rối nhìn nhau. Bá tước nói, “Tôi thường đi dạo vào ban đêm, sau khi mọi người đã ngủ. Dạo này tôi hay tới tu viện cầu nguyện. Tối qua tôi thấy bà Ximena đi cùng sứ giả Basajuan.” Anh ta hất hàm chỉ Alentín. “Tôi cứ tưởng… Phải nói là dạo này tôi cũng bắt đầu nghiên cứu thánh thư, và định nói chuyện một chút…”
Tôi cười ngay khi một lời nói dối hay ho xuất hiện trong đầu. Âm thanh nghe gượng ép chẳng lừa được những ai đã quen biết tôi, nhưng gương mặt bá tước ngay lập tức dãn ra. “Ta không định làm bá tước hoảng sợ,” tôi nói. “Chỉ là chúng ta cố tình giữ bí mật chuyện này. Anh biết đấy, không nhiều người biết thư khố tu viện Basajuan bị tổn thất nghiêm trọng trong cuộc chiến. Chúng tôi đang làm việc với họ để khôi phục những văn bản nào có thể, nếu cần thiết sẽ chép lại bản mới.”
Anh ta gật đầu. “Rất mừng được biết tin này. Những cử chỉ nhỏ sẽ giúp gây dựng mối quan hệ thiện ý với nữ hoàng Cosmé. Mà đây là điểm sống còn khi quốc gia này hiện nằm giữa ta và Invierno.”
“Quả vậy.” Tôi nâng ly rượu. “Mừng mối quan hệ tốt đẹp giữa Basajuan và Joya d’Arena.”
Mọi người nâng ly và lịch sự thoải mái nhắc lại câu của tôi.
“Nhưng nếu tôi là nữ hoàng,” bá tước tiếp tục, “tôi sẽ lục tung thư khố để tìm những manh mối về Thánh thạch.”
Tôi chằm chằm nhìn anh ta. Có phải anh ta ngẫu nhiên vô tình khơi những đề tài này lên? Hay anh ta có chủ ý gì khác?
“Vì sao?” Ximena hỏi, và tôi không thể là người duy nhất nhận ra sự nguy hiểm nhuốm trong giọng bà.
“À, thứ nhất là vì người thú. Kẻ đã tự thiêu. Invierno vẫn rất muốn viên đá đó. Tôi phải thừa nhận rằng mình cực kỳ tò mò muốn biết nguyên do. Và tôi không phải người duy nhất. Cả thành phố đang đồn chuyện ấy. Có lẽ là cả đất nước cũng chưa biết chừng.”
“Có lẽ chúng sợ nó chăng?” Phu nhân Jada nêu ý kiến. “Nữ hoàng đã dùng nó để giết vài tay pháp sư mạnh nhất.”
Tristán nhún vai. “Mỗi một trăm năm trong suốt hai thiên niên kỷ qua lại có một người mang Thánh thạch. Sao giờ chúng lại hành động cực đoan thế?”
Tôi có cảm giác mình nên xen ngang, nhưng không biết phải nói gì. Họ đang bàn về tôi, phần quan trọng nhất đời tôi, như thể tôi không hiện hữu. Có lẽ những chuyện tương tự thế này đang xảy ra khắp vương quốc.
Thánh thạch của tôi. Tôi. Một cuộc nói chuyện bên bàn ăn. Có lẽ vì là nữ hoàng nên tôi thuộc về mỗi người một chút.
“Nữ hoàng biết tôi nghĩ gì không?” Phu nhân Jada nói.
“Ta rất muốn biết,” tôi chân thành đáp.
Cô ta ngẩng cao đầu. “Tôi nghĩ họ muốn có lại mảnh đất này.”
“Ồ?”
“Tôi sẽ là người vợ đáng thương của thị trưởng nếu không biết lịch sử của mình,” cô ta nói một cách nghiêm túc. “Gia sư của tôi kể rằng vài thế kỷ sau khi Chúa đưa những gia đình đầu tiên đến thế giới này, một gia đình phát cuồng vì danh vọng, tham lam chiếm đất đai và tài nguyên thông qua các cuộc hôn nhân và chiến tranh. Nhưng những gia đình khác liên kết chống lại và đuổi họ đi. Họ bỏ chạy tới vùng hoang dã, chịu lời nguyền của Chúa, và đó là tổ tiên của người Invierno.”
“Họ bị đuổi đi,” cô ta kể tiếp. “Mọi người đều biết Brisadulce là thành phố tươi đẹp nhất thế giới này. Tôi nghĩ người Invierno muốn có lại nó.”
Lịch sử của cô ta khá đúng, nhưng nhận định về kinh đô thì không. Brisadulce là một thành phố cô lập, bốn bề đều bị những thảm họa thiên nhiên rình rập, buộc phải giao thương để có được nguồn hàng hóa cung cấp. Nó vẫn là kinh đô vì truyền thống và lịch sử lâu đời, và có thể còn do nỗi hoài cổ nữa. Nhưng bản thân mảnh đất này có thể nói là vô dụng. Vì sao người Invierno muốn nó trong khi họ có thể có Puerto Verde hoặc vùng đồi núi trập trùng xanh mướt ở các lãnh địa miền Nam?
Tôi nghiêm nghị nói, “Một giả thuyết khá hay. Có lẽ phu nhân đúng.”
Ximena sặc rượu.
Bếp trưởng vào, đi cùng người hầu mang lên những khay gà xé phay, bánh ngô và hoa quả tươi cắt miếng. Miệng tôi tứa nước bọt khi tôi trông thấy món bánh nướng dừa mật ong khoái khẩu. Chúng vẫn còn nóng hôi hổi; mật ong vàng ruộm chảy xuống dưới.
Phu nhân Jada vỗ tay. “Gà pibil! Tôi nghe nói, lúc còn sống đức vua rất thích món này.” Cô ta chỉ đĩa gà.
“Quả vậy,” Hector nói. “Lần đầu tiên, đức vua được thưởng thức món ấy ở thái ấp của cha tôi.” Thấy vẻ thắc mắc của tôi, anh bảo, “Một mùa hè nhiều năm trước, thuyền của đức vua Nicolao bị mắc kẹt trong cơn bão và đụng phải một dải đá ngầm. Ngài và hoàng tử Alejandro ở cùng chúng tôi trong lúc đợi sửa tàu. Chúng tôi gặp nhau như vậy đấy.”
Tôi chưa từng nghe câu chuyện này. Tôi tự hỏi còn bao nhiêu điều mình chưa biết về Hector.
Cha Alentín nói, “Chắc anh phải gây ấn tượng lắm với ngài, nên mới trở thành tiểu đồng của ngài. Và sau đó trở thành thống lĩnh Ngự lâm quân. Anh là người trẻ nhất từ trước đến nay.”
Hector nhún vai, tỏ vẻ ngại ngùng. “Gần như là vô tình thôi.”
“Ý anh là sao?” Tu sĩ hỏi.
“Tôi có hai anh trai, và thường tập kiếm trong sân. Buổi sáng Alejandro ở đó, một ông anh đã đánh ngã tôi, còn anh kia bắt đầu trêu chọc tôi, dùng kiếm chọc tôi. Chuyện đó cũng bình thường, và cũng chẳng gây ra hậu quả gì suốt cả trăm lần trước đó. Nhưng Alejandro quan sát toàn bộ sự việc qua cửa sổ phòng ngủ, và ngài xông vào sân, hét bảo hai anh tôi lùi ra, rằng ngài đã phong tôi làm tiểu đồng và sao họ dám đe dọa tiểu đồng của hoàng thất?
“Ngài nghĩ đã cứu mạng anh,” tôi nói.
Hector gật đầu, ánh mắt ấm áp khi nhớ lại ký ức ấy. “Hồi đó tôi mới mười hai, vậy nên cũng tự nhiên khi tôi nghĩ ngài là con người lỗi lạc nhất trên trần thế.”
“Nhưng cuối cùng thì hai người đã thực sự là bạn,” tôi nói.
“Đúng, nhanh lắm. Ngài ấy cô độc. Là con một. Tốt cho ngài khi có một cậu bé bên cạnh, một người ngài có thể dễ dàng đánh bại trong một trận đấu kiếm.” Anh vội vàng bổ sung, “tất nhiên là chỉ trong hai năm đầu tiên thôi, tất nhiên.”
Tôi cười. “Tất nhiên. Chàng từng nói với tôi rằng anh là chiến binh đáng sợ nhất chàng được biết.”
“Vậy sao?” Tấm mặt nạ rời khỏi gương mặt anh, và tôi thấy biểu cảm chân thật hơn, như thể anh và nỗi buồn là những người bạn luôn có nhau.
“Đúng vậy,” tôi dịu dàng nói. “Chàng rất hay nói với anh lúc bệnh nặng. Trở thành tiểu đồng của chàng có thể là do vô tình, nhưng trở thành thống lĩnh chắc chắn là không. Chàng bảo đấy là quyết định dễ dàng nhất đời chàng, dù lúc đó anh còn rất trẻ.”
Hector nuốt khan, gật đầu và quay mặt che giấu thái độ.
“Thật khó tin,” phu nhân Jada nói, và tôi giật nảy mình. Trong một thoáng, tôi có cảm giác chỉ có mình tôi và anh. Bà ta nói thêm, “Tôi muốn nói đến món gà pibil này. Bếp trưởng của nữ hoàng thật xuất sắc.”
Tôi thích mặc kệ bà ta, để hỏi thêm Hector về hồi anh còn bé, nhưng tôi có lý do mời Jada nên tôi buộc phải để ý tới bà ta. “Cảm ơn bà.” Tôi nhìn quanh tìm bếp trưởng, nhưng ông ta đã lặng lẽ rời phòng để chuẩn bị cho xong món tráng miệng. “Giờ ông ấy làm món bánh nướng cho ta, theo công thức ta mang theo từ Orovalle.” Tôi cầm cái bánh ngô và nhấm nháp.
“Vâng, ai cũng biết nữ hoàng thích bánh nướng.”
Tôi nhìn kỹ, xem bà ta có cố tình xúc phạm mình không, nhưng bà ta đang ngon lành thưởng thức món gà pibil.
Chính tên phản bội Belén lên tiếng, “Nữ hoàng còn thích món xúp jerboa hơn nhiều.”
Tôi suýt nghẹn. Súp jerboa là món ăn hàng ngày khi chúng tôi cùng nhau băng sa mạc. Nếu tôi còn nếm nó lại trong đời, vậy sẽ là quá sớm. Tôi nhìn qua và thấy môi anh ta giật giật vì nín cười.
Jada nói, “Nhưng xúp jerboa quá… thường dân.”
“Thi thoảng.” Tôi nuốt miếng bánh ngô và nghiêm túc nói, “Bà không nghĩ rằng đôi khi những món ăn giản dị lại gợi lên nhiều tứ thơ sao?” Tôi không biết mình vừa nói gì, nhưng bà ta gật đầu như thể nó gợi lên một sự thật sâu sắc.
Bá tước Tristán nói, “Ở Selvarica có món đặc sản tên là sendara de vida. Nó là khế tẩm mật ong và nước cốt chanh, rồi nướng trên than rắc hồ tiêu. Nếu các vị có dịp ghé thăm, tôi sẽ mời quý vị thưởng thức.”
Ximena và tôi hoảng hốt nhìn nhau. Gương mặt bà trắng bệch.
Bà vú quay sang bá tước và cẩn trọng nói, “sendara de vida. Có nghĩa là “cánh cổng của sự sống.”
Anh ta gật đầu. “Đặt theo tên một truyền thuyết cổ.”
“Ôi, kể cho chúng tôi nghe đi!” Tôi nói, với giọng điệu tôi hy vọng là nhiệt tình không chút giả tạo. “Ta rất muốn nghe thêm về Selvarica.”
Ở cuối bàn, cha Alentín nhoài tới, mắt nheo vào. Bên cạnh tôi, Hector đặt ly rượu và để tay hờ hững trên bàn.
Bá tước Tristán nhìn khắp lượt những khán giả đột nhiên chăm chú vào mình, ngay lập tức hiểu ra mình đang đứng ngoài một cuộc trò chuyện ngầm. Nhưng anh ta vẫn tiếp tục. “Đó hoàn toàn là Ngụy kinh thôi, nhưng truyền thuyết kể rằng Chúa tạo ra hai cánh cổng, một dẫn đến kẻ thù và một dẫn đến sự sống. Cánh cổng dẫn đến sự sống, la sendara de vida, nằm ở Selvarica, và rất nhiều anh con trai thứ của các quý tộc đã lên đường tìm kiếm nó, hy vọng chứng minh được bản thân và kiếm được của nả. Không ai thành công, tất nhiên. Nhưng rất nhiều người dân Selvarica tin nó tồn tại. Họ nói ai tìm thấy nó sẽ trường sinh bất tử và hạnh phúc mãi mãi.”
Im lặng như tấm chăn dày phủ lên phòng ăn.
Cuối cùng cha Alentín nghiêm nghị nói, “Lạ là cha chưa từng nghe về truyền thuyết này.”
Bá tước nhún vai. “Thuở nhỏ tôi cũng chẳng biết đến nó. Nhưng Iladro đã kể cho tôi nghe.” Anh chỉ người tùy tùng bảnh chọe bên cạnh. “Đúng không, Iladro?”
Người tùy tùng đỏ mặt vì đột nhiên là tâm điểm chú ý. Lông vũ cài mũ anh ta lắc lư khi anh ta gật đầu, “Vâng, thưa bá tước,” anh ta nói năng nhỏ nhẹ thật trái ngược với giọng tuyên hô của mình. “Truyền thuyết này vẫn còn được lưu truyền tại những hải đảo xa xôi.” Anh ta cầm miếng bánh nướng trên khay và nhét vào miệng, có lẽ để tránh bá tước bắt anh nói thêm.
“Một ngụy thánh thư,” Ximena lẩm bẩm nói một mình.
“Một hoặc hai tài liệu có nói bóng gió đến nó,” bá tước nói. “Nhưng đó là cách chúng ta biết rằng không có chút sự thật nào trong truyền thuyết, đúng chứ? Không một thánh thư phóng tác nào nhắc đến nó lấy một lần.”
“Quả vậy,” Ximena nói, nhưng tôi nghe thấy sự ngờ vực – hoặc có lẽ là bâng khuâng – trong giọng bà.
“Kinh ngụy tác là gì?” Phu nhân Jada hỏi.
Hector nói, “Kinh ngụy tác là nhóm những văn bản được viết về Chúa, nhưng được các học giả và tu sĩ chứng minh rằng chỉ là huyền thoại. Chúng không chứa đựng chút thông tin gì về Chúa hết.”
Tôi ngạc nhiên và vui sướng nhìn anh. Tôi không hề biết anh biết những chuyện này.
Anh liếc mắt nhìn tôi, ánh mắt vui vẻ. “Nhưng cũng thú vị hệt như các câu chuyện dã sử,” anh nói với phu nhân Jada. “Chúng tiết lộ nhiều điều về quan điểm và phong tục tập quán của thời chúng được sáng tác.”
“Còn bà thì sao, phu nhân Jada?” Tôi vẫn cười và nói. “Là vợ thị trưởng, chắc hẳn bà có thể kể cho tôi nghe về món đặc sản – hoặc huyền thoại – nào đó ở Brisadulce mà nữ hoàng này nên biết chứ nhỉ?”
Phu nhân Jada ngồi thẳng lưng và mở miệng định kể cái mà tôi chắc chắn là một mớ những luận thuyết đúc rút từ những chuyện hoàn toàn tầm phào. “Nữ hoàng nên yêu cầu nhà bếp chuẩn bị…”
Bà ta sững lại khi nghe có tiếng nôn mửa.
“Iladro?” Bá tước Tristán nói.
Người tùy tùng cúi gập trên bàn, người co rút. Anh ta ngước lên, giàn giụa nước mắt. Gương mặt thanh tú của anh ta tím bầm.
Ximena lao vội qua bàn. Bà dùng một tay cầm vội cái dĩa của anh chàng, dùng tay kia cạy miệng anh ta ra.
Hector kéo tôi đứng dậy. Bằng tay kia, anh rút dao khỏi bao tay. “Elisa, nhổ hết thức ăn trong miệng ra. Ngay.”
Có độc. Da tôi lạnh băng. “Tôi… không có gì hết.”
Ximena nhét cán dĩa xuống họng Iladro và nói, “Nôn ra đi. Vậy có thể cứu mạng anh đó.”
Và anh ta nôn ra một đống thức ăn được tiêu hóa dở, gà pibil đo đỏ và bánh nướng khắp bàn. Mùi chua nồng xộc vào mũi tôi.
“Bánh nướng!” Belén nói. “Chỉ có anh ta ăn món đó.”
Bếp trưởng xông vào phòng, hét lên. “Dừng lại! Nhổ đồ ăn ra! Người thử đồ ăn vừa…” Ông ta trông thấy đống hổ lốn trên bàn, và mặt hết huyết sắc. “Quá muộn rồi.”
“Phu nhân Jada,” tôi ra lệnh. “Tìm ngự y Enzo ngay.” Bà ta vội vàng đứng dậy và chạy khỏi phòng ăn.
“Anh ta sẽ…?” Bá tước run rẩy hỏi, vuốt cánh tay người tùy tùng. “Ôi, Iladro, anh đã…”
Hector quàng tay qua vai tôi, kéo lưng tôi sát ngực anh rời xa bàn ăn. Tay kia của anh vẫn cầm dao, nhưng tôi không biết anh nghĩ mình có thể dùng nó làm gì.
“Nước!” Ximena hét lên không với một ai, và một ly nước xuất hiện trước mặt bà. Bà đổ xuống họng người tùy tùng. Anh ta bị sặc, và nước ứa ra khỏi miệng, nhưng bà hét gì đó với anh chàng và anh ta bắt đầu uống ừng ực như thể tính mạng anh ta phụ thuộc vào nó, mà điều ấy có thể đúng. Và rồi bà ta bắt anh ta nôn ra tiếp.
“Đi thôi, Elisa,” Hector nói và bắt đầu lôi tôi rời phòng ăn.
Nhưng tôi phản đối. “Không.”
“Ở đây không an toàn! Chúng ta phải…”
Tôi quay lại nhìn anh. “Thanh kiếm của anh không thể bảo vệ tôi khỏi thuốc độc.” Với những người còn lại, tôi bảo, “Ximena, ở lại cùng Iladro tới khi ngự y Enzo đến. Những người khác, theo ta ngay.” Tôi sải bước đi qua cửa dẫn vào bếp, và mọi người vội vàng đi theo.
Bếp thật hỗn loạn. Mọi người chạy đôn đáo đổ đồ ăn, lau rửa bát đĩa và xoong chảo. Tôi thấy mùi chua loét của bãi mửa và bánh mì cháy. Trên sàn đá, bên cạnh thớt là một người đàn ông tôi chưa từng gặp bao giờ. Rõ ràng anh ta đã chết. Mắt anh ta lồi to, vẫn còn nguyên vẻ hoảng hốt và đau đớn. Bãi mửa dính máu chảy ra từ mép và thành vũng bên cạnh. Một cô gái đội mũ hầu gái trân trối nhìn anh ta từ sau cái xiên thịt nướng. Nước mắt giàn giụa chảy xuống khuôn mặt cô ta. Belén và những lính gác chắn lối ra vào.
“Im lặng!” Tôi hét. Sự im lặng đổ xuống, đù những đôi mắt vẫn trợn to vì khiếp sợ. “Tất cả đứng sát bức tường đằng đó cho ta!” Tôi ra hiệu nhưng họ di chuyển quá chậm. “Ngay lập tức!”
Họ quàng quàng đâm bổ cả vào nhau làm theo mệnh lệnh, nhưng cũng xếp thành hàng thẳng thớm.
Tôi đi lại trước mặt họ. “Ai làm bánh nướng?” Tôi hỏi.
Im lặng. Rồi có người lí nhí, “Là tôi, thưa nữ hoàng. Felipe và tôi.”
Tôi quay đầu tìm xem giọng nói tới từ đầu. Chính là cô hầu gái khóc lóc ban nãy. “Chính cô bỏ độc?”
“Ôi, không, thưa nữ hoàng. Tôi sẽ không bao giờ…”
“Thế Felipe đâu?”
“Tôi không biết.” Cô ta không dám nhìn thẳng vào mắt tôi, và cái mũ hầu gái tụt xuống trán. Tôi bực bội vì không trông thấy rõ thái độ của cô ta.
Vậy nên tôi vươn người dùng tay nâng cằm cô ta. “Lần cuối cô gặp anh ta là khi nào?”
Cô ta nuốt nước bọt và chớp đôi mắt ướt. “Tôi không rõ nữa. Có lẽ là… ngay trước khi phục vụ món chăng? Anh ta bảo cần rượu để… để tẩm lê. Nhưng… ôi trời ơi.”
“Sao lại ôi trời ơi?”
“Hôm nay không có lê. Tôi không hề nghĩ… lúc đó… tôi quá bận. Làm sao tôi biết được chứ?” Ánh mắt cô ta hoảng hốt, lạc thần nhưng chân thật. Tôi tin cô ta.
Không rời mắt khỏi người hầu gái, tôi nói, “Belén, xuống hầm rượu kiểm tra.”
“Tôi đi ngay, thưa nữ hoàng.”
Tôi lùi lại, nắm chặt tay thành quyền. Chuyện này không thể cứ êm thấm trôi qua. Điều gì sẽ xảy ra nếu cả thành phố biết thuốc độc được đưa vào tận phòng ăn riêng của tôi? Họ sẽ thấy tôi yếu đuối, không thể kiểm soát kẻ hầu người hạ, chứ đừng nói đến cả một đất nước. Và họ sẽ đúng.
Tôi cần chứng tỏ quyền lực. Rằng mình nổi giận. Phải làm cho người ta ghi tâm khắc cốt.
Tôi đi đi lại lại, lo lắng cắn móng tay. Tôi có thể đuổi tất cả ra khỏi cung điện. Điều này chắc chắn đáng nhớ rồi. Nhưng chắc chắn rằng hầu hết những người ở đây – nếu không muốn nói là tất cả – đều vô tội. Nếu có bằng chứng, tôi sẽ không do dự chặt đầu kẻ hạ độc.
Tôi dừng sựng lại. Đây chính là lý do tướng quân Luz-Manuel xử tử Martín chăng? Chỉ là để phô diễn sức mạnh? Vì đó là một đòn chính trị khôn ngoan khi đổ vấy tội lỗi cho ai đó?
Belén xuất hiện tại vòm cửa đá dẫn xuống hầm rượu. “Hắn ở đó,” anh ta nói, và nhìn vẻ nghiêm trang của anh, tôi biết có tin không hay.
“Không ai được rời bếp,” tôi nói và nhận được một tràng, “Vâng, thưa nữ hoàng.” “Hector, Tristán, đi cùng ta.”
Cúng tôi cùng nhau đi xuống cầu thang dẫn xuống hầm rượu. Nó dốc, mát mẻ và có mùi gỗ ướt và tối om. Dọc cầu thang là một cái dốc để lăn các thùng rượu lên xuống.
Belén đứng dưới chân cầu thang, đứng cạnh một thi thể. Thật ra, cậu ta còn trẻ. Cậu ta nằm nghiêng, tay ôm dưới bụng trông rất không bình thường. Chất nôn mửa ướt hết áo và đọng lại dưới đế một thùng rượu.
Hắn cầm một mẩu da.
Hector cúi xuống rút nó khỏi những ngón tay đã cứng đơ. Anh mở ra và đọc. “Một lá thư.”
“Đọc đi.”
“Bạo chúa phải chết.” Hector ngước lên. “Chỉ có vậy.”
“Ôi Chúa ơi.”
Giận dữ kêu lên, Tristán chạy tới và đá mạnh vào sườn người chết. Thi thể nảy lên; cái tay đập mạnh xuống sàn, và có gì vỡ bên trong.
“Tristán, bình tĩnh đi,” tôi nói.
Bá tước quay lại nhìn tôi, và lần đầu tiên, tôi thấy có vết bẩn màu nâu còn ướt trên chiếc áo vải đũi của anh ta. “Nhưng… Iladro, tùy tùng của tôi… biết đâu… anh ta có thể…”
“Ta biết. Ngự y của ta đang thăm khám rồi. Chúng ta sẽ làm tất cả những gì có thể.”
Vai anh ta run run giận dữ, nhưng anh ta gật đầu. “Vâng, thưa nữ hoàng. Cảm ơn ngài.”
“Tôi không tin,” Belén trầm tư nói.
“Ý anh là sao?”
“Felipe này biết đọc biết viết không? Và nếu có, đây có phải chữ viết tay của hắn không?”
“Belén nói đúng,” Hector lên tiếng, và cả hai nhìn nhau tỏ vẻ hiểu ý. “Thật tiện làm sao khi tìm thấy hắn với mảnh giấy này nắm chặt trong tay.”
Tôi bóp bóp sống mũi. Mảnh giấy không phải la bằng chứng – không hẳn. Nhưng có lẽ tôi có thể giả vờ coi đó là chứng cứ.
Tôi bảo, “Hector, anh có thể tìm kiểu tất cả những gì có thể về người này chứ? Có lẽ gia đình hắn biết gì đó.”
“Vâng.”
“Cảm ơn anh. Tôi cần phải phô diễn sức mạnh. Tristán, anh khuyên tôi nên làm gì?”
Mắt anh ta nheo lại vì biết tôi đang thử thách anh ta. “Tôi đề nghị ngài nên trừng phạt nhà bếp vì tắc trách,” anh ta đều đều nói. “Tôi biết là nặng nề, nhưng sẽ khiến không ai dám gây hại thêm. Cô phải đưa ra một thông điệp rõ ràng rằng cô không yếu đuối, và rằng cô có thể trả đũa nhanh và mạnh.”
Tôi hít một hơi sâu để bình tâm. Đúng, trừng phạt. Điều này thật tệ, nhưng còn hơn xử tử hay đuổi việc tất cả. “Cảm ơn bá tước. Sao anh không đi thăm tùy tùng đi nhỉ?”
Anh ta vội cúi chào và bỏ đi mất.
Hector nhìn tôi rất kỹ. “Cô có thể không?” anh dịu dàng nói. “Tôi sẽ ra lệnh thay cô, nếu cô muốn.”
Tôi giấu giếm cảm giác an tâm đột nhiên xuất hiện. “Không. Tôi nên tự ra lệnh. Đó là cách tỏ quyền uy, đúng không?” Trước khi kịp đổi ý, tôi đã vội chạy lên cầu thang, Hector và Belén đi sau.
Người của gian bếp vẫn đứng thành hàng bên tường, dưới sự giám sát của các lính gác của tôi. Alentín ngồi bên bếp lò, cầu nguyện. Phu nhân Jada đã đón ngự y Enzo về. Mắt bà ta mở to phấn khích, chắc chắn đang khấp khởi chỉ muốn kể những chuyện này với bất cứ ai quen biết. Tôi không thể nhìn bà ta.
Tôi nói với những người trong căn bếp. “Felipe đã tự sát. Ta tin hắn là người bỏ độc. Ta không biết có ai trong đây kích động hắn không. Tuy nhiên, ta biết rằng các ngươi đã tắc trách, khi mà nếm thử chưa bao lâu đã đem lên phục vụ.”
Tôi đợi một lúc để tất cả cùng hiểu. Hy vọng là họ sẽ sợ tình thế xấu nhất, và đòn trừng phạt của tôi so ra sẽ chẳng là gì.
“Vậy nên, sáng mai, các ngươi sẽ bị đưa ra vườn thượng uyển.” Có người nấc lên một tiếng. “Ở đó, các người sẽ bị đánh, trước mặt toàn thể triều thần.” Tôi thấy sự hoảng hốt, nhưng một vài người thở dài nhẹ nhõm.
Tôi nắm tay thành quyền để không ai có thể thấy tay tôi run đến độ nào. Tôi chỉ vừa ra lệnh đánh đập những con người vô tội này, để giành được ưu thế chính trị cho mình. Tôi là kiểu người gì thế này? Chắc là giống tướng quân Luz-Manuel.
Một lính gác hắng giọng. “Thưa nữ hoàng, ngài muốn đánh bao nhiêu roi?”
Ôi, Chúa ơi, đòn roi. Tôi chẳng biết gì về chuyện này. Tôi chỉ muốn đánh họ, nhưng không để họ bị thương quá nặng. Bao nhiêu là quá nhiều đây? Quá ích, và đòn trừng trị sẽ thiếu sức nặng.
Hector xen vào. “Chắc là mỗi người mười roi, thưa nữ hoàng,” anh bảo.
Tôi muốn ôm anh. “Đúng, đương nhiên. Mười roi mỗi người.” Tôi sẽ phải giám sát. Xuất hiện ở buổi phạt roi. Mắt tôi cay cay chỉ chực chảy nước mắt.
Tôi phải rời phòng này trước khi mất bình tĩnh. Tôi hít một hơi sâu và hất hàm với một người lính. “Nhốt họ trong tháp ngục đến ngày mai. Những người khác được phép ra về.” Và đến đó, tôi vội rời bếp, vào hành lang.
Hector vội đuổi theo. “Hãy để tôi đi cùng,” anh nói.
“Dĩ nhiên,” tôi mệt mỏi nói. “Tôi chỉ muốn bỏ đi thôi.”
“Cô làm rất tốt.”
Tôi lại không thấy vậy.
Anh nói. “Tôi sẽ cho truyền ngự y Enzo tới chỗ cô ngay khi ông ta chẩn bệnh cho người của bá tước xong.”
“Cảm ơn anh.”
Một lát sau, chúng tôi tới cửa phòng tôi. Anh nhìn tôi, không ngại che giấu sự lo lắng. “Cô sẽ ổn chứ?”
“Giờ tôi căm ghét bản thân vô cùng,” tôi thừa nhận.
Anh vươn tay như định chạm vào tôi, rồi do dự và hạ tay xuống. Anh bảo, “Tôi biết. Nhưng tôi thì không. Không ghét cô.” Tới đó, anh đi mất.