• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nữ hoàng không ngai
  3. Trang 18

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 34
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 17
  • 18
  • 19
  • More pages
  • 34
  • Sau

Chương 14

Khi đến khu thống lĩnh, Hector đã ngất, và chủ yếu là bá tước Tristán đỡ anh khi chúng tôi lôi Hector vào trong. Những người lính khác giúp chúng tôi nhẹ nhàng đặt anh xuống giường.

Ngự y Enzo chạy vội vào, theo sau là hai người học việc đeo tạp dề xám. “Mất quá nhiều máu,” ông lầm bầm. “Nghiêng anh ta sang bên và xé áo ra,” ông ra lệnh cho một người học việc. “Còn anh,” ông nói với một anh lính, “lấy nước nóng và khăn sạch, càng nhiều càng tốt. Chúng ta cần vệ sinh cho anh ta trước khi tôi thấy rõ anh ta chảy máu chỗ nào một khi tôi ấn mũi tên xuyên qua. Nữ hoàng, xin lùi lại.”

Hóa ra tôi cứ quanh quẩn gần đó, nhưng không nhúc nhích. “Anh ấy… sẽ…?”

Ông ta quay người và đẩy vai tôi tới khi tôi dựa sát tường. “Tôi đề nghị nữ hoàng nên bắt đầu cầu nguyện đi,” ông ta nói.

Nhìn gương mặt không huyết sắc của Hector, tôi trượt người ngồi phệt xuống sàn, chân co sát ngực. Tristán ngồi xuống bên cạnh. “Nữ hoàng rất quan tâm tới anh ta.”

Tôi gật đầu. “Hector là… anh ấy là một trong những người bạn thân thiết nhất của tôi.”

“Vậy tôi sẽ ở lại và cầu nguyện cùng nữ hoàng một lát.”

“Cảm ơn anh,” tôi thì thầm. Tôi không nên cho anh ta biết tôi từng cầu nguyện cho rất nhiều người yêu thương, nhưng chẳng ích gì.

Ngự y Enzo hét bảo một người giúp việc đốt lò sưởi và nung que cời lò.

Khi Tristán lầm rầm cầu nguyện bên cạnh, tay tôi đan vào bàn tay anh ta, tôi không tập trung nổi. Tôi chỉ có thể trân trối nhìn, lòng hoảng loạn, khi ngự y Enzo lấy gì đó trông như một con dao cạo có cán dài và bắt đầu cắt quanh mũi tên.

“Thú vị,” ngự y nói. “Rất thú vị.”

“Sao?” Tôi hỏi, ngắt ngang tràng cầu nguyện của Tristán.

“Nó suýt làm đứt một xương sườn,” ông bảo. “Trúng ngay phổi, nên tôi không thể đẩy xuyên qua được. Tôi phải rút ra, nhưng đầu mũi tên có khía. Nó sẽ gây tổn thương lớn.”

Nhưng da Hector quá tái, hơi thở quá nông. Mồ hôi khiến đôi má anh ánh lên. Tôi không biết anh có thể chịu nổi thêm thương tích hay chăng.

Tôi vẫn cầu nguyện; tôi không biết phải làm gì nữa. Tôi nhắm mắt, chạm trán vào trán Tristán, và cầu nguyện nhiệt thành, để hơi ấm của Thánh thạch giúp tôi bình tĩnh. Tôi không chịu ngừng khấn nguyện, không chịu mở mắt, dù tiếng rên rỉ trong vô thức của Hector cho tôi biết Enzo đã rút mũi tên ra. Kể cả khi cây cời lò nóng kêu xèo xèo trên da anh và mùi máu cháy sực nức phòng.

Ngự y và hai người giúp việc đang lau rửa, dọn những tấm khăn đẫm máu và lau sàn nhà gần giường Hector thì Tristán khẽ lay vai tôi. “Tôi phải đi gặp cái gã bị tôi đánh trúng đầu,” anh ta nói. “Xem hắn biết được những gì.”

Tôi đã quên mất gã. “Ồ, vâng, mời bá tước.” Anh ta đứng lên và đi ra cửa. “Tristán?” Anh ta ngoái lại. “Cảm ơn anh. Vì đã đến cứu chúng tôi. Vì đã ở đây cùng ta.”

Anh ta cúi rạp người. “Để nữ hoàng lại đây được chứ?”

“Ta sẽ an toàn trong doanh trại Ngự lâm quân.”

“Đương nhiên. Vậy tôi xin phép.” Anh ta rời khỏi khu ở của Hector.

Khu ở của Hector. Tôi chưa từng đến đây. Tôi nhìn quanh, không ngạc nhiên khi thấy nó đẹp một cách khổ hạnh. Giường, tủ quần áo, kể cả cái thảm len không nhuộm dưới chân tôi cũng toát lên sự mộc mạc tinh tế nhờ sự sạch sẽ và màu sắc mát mắt cùng sự thanh nhã. Một bức tranh treo trên tường, là một chấm phá sắc màu thực sự duy nhất trong cái nơi này. Nó vẽ một vườn nho, và những dàn dây nho trĩu trịt quả tím bầm trên những ngọn đồi vàng, dần mờ nhạt dưới ánh hoàng hôn. Vài bản thảo, thậm chí vài cuốn sách, được xếp chồng bừa bãi trên táp đầu giường cạnh một cây nến cháy dở – chỉ một chút bừa bộn.

Đây là nơi Hector ngủ. Và nhìn các bản thảo, nơi anh dành chút thời gian rảnh rỗi được tôi cho phép. Tôi hít thật sâu. Nơi này còn có mùi của anh – dầu lau da và thạch nha đam cạo râu cùng chút mùi mồ hôi phảng phất.

Ngự y cùng hai người giúp việc đi ra cửa, tay ôm một bó khăn đẫm máu. “Nữ hoàng, tôi cần đi thăm người lính kia. Hình như anh ta bị thương ở chân thì phải?”

“Đợi đã. Cho ta biết tình hình Hector.”

“Anh ta mất quá nhiều máu, và mũi tên cắt vào phổi. Tôi không thể giữ anh ta không bị choáng. Anh ta khó lòng qua khỏi, dù tôi có tay nghề đáng kể.”

Mắt tôi hoa đi và ngực tự dưng nghẹn lại.

“Nữ hoàng sẽ nán lại một chút chứ?” Ông ta hỏi bằng giọng nhẹ nhàng khác thường.

“Ừ,” tôi nói.

“Vậy thì, trà tầm ma quỷ ở trên lò. Hãy bắt anh ta uống, nếu như anh ta có cơ may thức dậy. Nó sẽ giúp máu đông và giảm đau. Tôi sẽ lệnh cho không ai được vào phòng này – anh ta cần nghỉ ngơi hoàn toàn. Nếu nữ hoàng phải đi, hãy bảo lính gác bên ngoài ngồi đây để kiểm tra… sức khỏe cho anh ta. Tôi sẽ trở lại xem xét vết khâu và băng bó.”

Tôi chẳng để ý ông ta đóng cửa lại. Tôi chăm chú ngắm nhìn gương mặt Hector, nhìn hàng lông mi cong phủ rợp trên gò má. Đôi môi hơi hé mở, hàm râu đen lún phún.

Da tôi đỏ ửng, vì lò sưởi vẫn đang cháy rực, vì sự hồi đáp của Thánh thạch trước những lời cầu nguyện của tôi, vì sợ hãi. Anh ta khó lòng qua khỏi. Tôi bò tới bên giường anh và quỳ tại đó. Tôi vươn tay nắm tay anh thật chặt. Anh không nhúc nhích.

Một sự trống trải xuất hiện trong ngực tôi, ở nơi đáng ra là tim và phổi, và ôi, tôi thấy nhức nhối. Nó như một cơn đau đến không thở nổi nằm bên dưới lồng ngực vào những ngày đi trong sa mạc lại thiếu nước uống. Nó như một con dao lụi vào bụng. Tôi có cảm giác mình như sắp chết.

Tôi áp trán lên mu bàn tay anh. Con cầu xin Chúa, xin Ngài giúp anh ấy bình phục. Đừng để anh ấy phải chết. Thánh thạch đập rộn, nhưng tôi biết vậy là không đủ. Tôi đã phải bao lần cầu xin Chúa cứu mạng ai đó, nhưng Chúa lại ngoảnh mặt làm ngơ nào?

Con sẽ làm tất cả. Nếu có thể, con sẽ cho anh ấy tính mạng và sức khỏe này. Anh ấy là người tốt, tốt nhất. Anh ấy xứng đáng được sống. Con xin Ngài.

Tôi tưởng tượng đang truyền sinh khí khỏi cơ thể tôi, truyền qua đôi bàn tay đang nắm lấy nhau, sang Hector, chữa lành vết thương cho anh.

Thánh thạch biến thành hòn lửa. Tôi kêu lên vì cảm giác nóng cháy da cháy thịt chạy ngược sống lưng.

Sau một hồi, cảm giác đau đớn dịu bớt. Có gì đó thế chỗ nó, gì đó như nước, ánh sáng, hay gió sa mạc bốc lên từ mặt đất, đổ vào Thánh thạch của tôi. Cơ thể tôi run lên tới khi tôi có cảm giác mình sẽ vỡ òa.

Hy vọng bỗng trỗi dậy trong tôi, vì tôi đã từng có cảm giác này – khi giết đám người thú bằng Thánh thạch.

Tôi không biết sức mạnh đó tới từ đâu hay tôi lấy được nó bằng cách nào, nhưng cơ thể tôi rung lên với tiềm năng, khả năng, như thể nguồn năng lượng đang dâng lên trong tôi là một khối đá lớn sắp sửa lăn xuống vách núi.

Chúa ơi, con phải làm gì?

Bàn tay Hector nhúc nhích. Tôi nắm chặt hơn, áp môi vào mu bàn tay anh, tập trung vào quyền năng bên trong mình.

Hãy sống. Làm ơn hãy sống.

Không có gì hết.

Nghĩ đi, Elisa! Lần trước, tôi đã nhắc lại lời của Chúa trong Thánh thư. Nó trở thành ống dẫn sức mạnh của Thánh thạch, tập trung nó vào nơi tôi cần.

Tôi nói lớn, “Cánh cổng dẫn đến sự sống rất nhỏ hẹp nên hiếm người tìm ra.” Thánh thạch nảy lên, và sức mạnh bên trong tôi xoay chầm chậm. Được thúc đẩy, tôi nói thêm, “Vì bàn tay phải quyền năng của Chúa là bàn tay chữa lành; người nào đi tìm sự tái sinh sẽ được chúc phúc, vì người đó sẽ được đáp đền.”

Năng lượng từ từ, chậm chạp rời khỏi tôi, từ tay tôi truyền sang Hector. Tim tôi đập rộn ràng, phấp phỏng niềm hy vọng. Tôi vắt óc suy nghĩ thêm.

“Nguyện cầu phụng sự”, đúng rồi! “Xin Chúa hãy nhận lấy sinh mạng con là lễ vật, linh thiêng và dễ chịu. Hãy để con được làm bề tôi của Ngài…” Sức mạnh bắt đầu yếu đi. “Không! Chúa ơi, làm ơn đừng.”

Tôi ngắm nhìn gương mặt Hector, ghi nhớ mọi chi tiết – đôi môi nhợt nhạt, đường xương quai hàm, những vết sẹo chằng chịt một bên má. Và đột nhiên tôi có nó. Một đoạn hoàn hảo.

Sự tin tưởng dâng lên trong lòng tôi như nước triều. Tôi thì thầm, “Vì tình yêu đẹp hơn hồng ngọc, ngọt ngào hơn mật ong, tuyệt vời hơn rượu tiến vua. Và chẳng ai yêu nhiều hơn người dám trao sinh mạng mình vì một người bạn. Tình yêu của tôi như nước hoa chảy tràn…”

Cửa xả lũ đã mở. Năng lượng ào ào tuôn khỏi tôi, vào Hector. Anh cong người, mắt mở trừng trừng, nhưng chỉ toàn lòng trắng. Rồi anh nằm ẹp xuống giường.

Tôi chỉ kịp nhận ra anh thở dễ dàng hơn, huyết sắc trở lại gương mặt anh, trước khi mắt hoa đi vì kiệt sức và chóng mặt. Tim tôi đập chậm lại chỉ còn một nhịp trên vài giây. Quá chậm. Tôi sắp chết ư? Tôi đã đổi mạng mình để cứu Hector sao?

Một cuộc trao đổi tuyệt vời, tôi thầm nghĩ, khi gục bên giường, má áp vào cánh tay anh.

Tôi tỉnh dậy trong tình trạng một tay gác lên trán, ngón tay rối vào bím tóc chưa được gỡ của tôi. Một bàn tay đàn ông, to dày và thô ráp. Chúng vuốt ve má, quai hàm, đôi môi tôi.

Tôi ngẩng đầu, chớp mắt cho tỉnh táo hẳn. Hector đã thức dậy, chăm chú nhìn tôi với một thái độ rất kỳ lạ. Anh không buông tay, ngón cái còn nhẹ nhàng vuốt ve cằm tôi.

Nỗi an tâm quá lớn như thể tôi lại được hít thở.

“Cô đã ở lại,” anh nói, giọng khàn đặc.

“Và tôi không chết!” Tôi bâng khuâng. Thấy vẻ bối rối của anh, tôi vội nói thêm, “Anh thấy thế nào rồi?”

“Như bị cái găng tay sắt của đội trưởng Lucio đấm cho một cú vào lưng. Tôi phải thấy tệ hơn mới phải.”

“Thành công rồi!”

Tay anh vẫn chưa rời mặt tôi, và tôi chỉ muốn áp vào đó, có lẽ hôn những ngón tay anh.

“Ý cô là…?”

“Thánh thạch. Tôi biết nó có thể trị thương, nhưng không biết nó có thể trị bệnh cho người khác.”

Anh buông tay, ngồi thẳng, nhăn nhó. “Cô tưởng cô đã hy sinh tính mạng để cứu tôi.”

Tôi mở miệng định chối, nhưng rồi quyết định không nên nói gì.

Anh bỏ chân xuống giường để có thể đối diện với tôi. “Khắp người cô toàn máu khô,” anh nói khẽ. “Là máu của tôi, đúng không?”

Tôi định bảo rằng không sao hết, có thể giặt sạch, nhưng mọi từ ngữ rời bỏ tôi khi anh ôm lấy gương mặt tôi. “Làm ơn, Elisa,” anh nói, “đừng bao giờ, đổi mạng cô lấy mạng tôi.”

“Tôi không thể để anh chết. Tôi thà…”

Có tiếng gõ cửa, và chúng tôi vội vàng tách nhau ra.

“Mời vào!” Hector nói, dù vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt khó hiểu.

Ngự y Enzo xông vào, nhưng dừng sựng lại, miệng há hốc. “Thật không thể tin nổi.”

Sau một thoáng im lặng khó chịu, tôi nói, “Có lẽ khả năng của ông còn đáng kể hơn ông tưởng?”

Ông hết nhìn tôi lại nhìn Hector, nhíu mày. “Tôi thừa nhận mình cũng có chút tiếng tăm.” Ông ta trầm ngâm nói. “Nhưng đây không phải công cán của tôi.”

“Một phép màu chăng?” Tôi nói lí nhí.

Ánh mắt của ông dời xuống vùng bụng tôi. “Nữ hoàng đã cứu anh ta,” ông ta đổ trách nhiệm cho tôi.

Tôi nhún vai, không muốn nhiều lời. Tôi cần cho ai đó biết về chuyện xảy ra. Cha Alentín hoặc Ximena, nhưng Enzo thì không. “Ta ngủ gật. Có chuyện đã xảy ra trước khi ta tỉnh dậy.” Ánh mắt Hector lóe lên ra chiều đã hiểu; anh biết tôi không nói ra toàn bộ sự thật. Trước khi bị hỏi dồn thêm, tôi nói, “Ta cần về phòng riêng. Ta phải chuẩn bị cho Đại lễ sáng mai. Enzo, hãy để bệnh nhân được nghỉ ngơi. Ta sẽ tìm binh lính hộ tống ta về.”

Đằng sau, tôi nghe Enzo nói, “Tôi ghi lại trường hợp này được không? Nhật báo Y học dị thường hẳn sẽ rất hiếu kỳ…”

Khi tôi đóng cửa lại, Thánh thư của Chúa văng vẳng trong đầu tôi. Tình yêu của tôi như nước hoa chảy tràn…

Tôi cúi gập người, ôm lấy mình trong niềm nhẹ nhõm, và hiểu rõ một điều: Tôi toàn tâm toàn ý hết lòng yêu vị thống lĩnh Ngự lâm quân.

Con cảm ơn Chúa. Cảm ơn Ngài đã cứu mạng chàng.

Tôi đứng thẳng dậy, phát hiện ra vài lính gác đang chăm chú nhìn mình. Một trong số đó là Fernando, đang nhìn tôi với ánh mắt buồn rười rượi giống một chú cún sợ hãi. “Ngài Hector…?” Anh ta run rẩy hỏi.

“Sẽ ổn,” tôi nói. “Ta cần người đưa ta về phòng.”

Fernando ra lệnh cho những người khác bảo vệ tôi, còn anh ta canh gác, tay khoanh lại, gương mặt kiên định. Tôi không phải người duy nhất yêu quý thống lĩnh của họ.

Đêm đã buông, và tôi không định đi ngủ, vì biết sẽ chẳng tài nào ngủ được. “Tới tu viện,” tôi nói, và họ bao quanh tôi.

Các hành lang vắng lặng. Những ngọn đuốc trên giá hắt ánh sáng lấp lánh xuống những họa tiết gạch bóng loáng trên tường, nhưng cũng phủ những bóng đen lên con đường rải sỏi. Tôi tưởng tượng cảnh những thích khách ẩn nấp trong bóng tối, đằng sau các ngóc ngách. Mỗi tiếng sột soạt, mỗi tiếng thì thầm, là một mũi tên bay tới, một con dao tuốt khỏi vỏ.

Tôi nghĩ đến Hector, ước gì có anh ở bên. Nhưng tôi cũng mừng vì anh không có mặt, vì tôi còn rất nhiều điều phải suy nghĩ trước khi gặp anh lần tới.

Chúng tôi quành ở góc và vào tu viện, một nơi chẳng bao giờ thực sự chìm vào giấc ngủ. Đây đó là các tín đồ đang quỳ trên ghế nguyện, và một thầy dòng mặc áo choàng xám lẳng lặng để ý nến trên khám thờ. Tôi hít hà mùi hương hoa hồng thánh dễ chịu. Tôi chắc chắn được an toàn ở đây, trong nơi thờ phụng này.

Tôi mở cửa thư viện và thấy Ximena, Alentín và Nicandro ngồi trên ghế đẩu bên bàn chép, đang mải đọc một trang giấy cũ đến độ mép cong đen.

Tôi cảm ơn những người lính và yêu cầu họ canh gác cửa ra vào, rồi đóng cửa lại.

Cả ba giật mình ngước lên, và gương mặt Ximena thảng thốt. “Elisa? Có máu khắp người con sao?”

Tôi quên mất. “Vâng. Của Hector. Chúng con bị tấn công ở hành lang ngoài thư phòng. Lính đánh thuê. Tristán tới cứu viện. Nhưng giờ tất cả đều ổn.” Tôi đến, định kể cho bà nghe tất cả, rằng tôi đã cứu mạng anh, nhưng đột nhiên lại không muốn. Tôi cần nghĩ về chuyện khác một chút, trước khi ngẫm kỹ về vấn đề ấy.

“Và đám lính đánh thuê?” Bà hỏi. “Con biết ai thuê chúng không? Chúng bị bắt sống hay bị giết cả? Có lẽ có…”

Tôi giơ tay. “Để sau đi. Giờ cho con biết về trang giấy cũ mủn và tuệ ngôn không thể thấu hiểu. Xin vú đấy.”

Cả ba người họ nhìn nhau, rồi Nicandro nói, “Cha sẽ cho con thấy chúng ta phát hiện được gì.” Ông vỗ vào cái ghế đẩu bên cạnh, rồi dịch ngọn đèn dầu sang bên nhường chỗ cho tôi.

Tôi ngồi lên ghế, khó chịu vì ký ức trong đầu. Lần cuối tôi ngồi đây trong đêm với cha Nicandro, ông cho tôi hay người ta đã che giấu những chuyện về những người mang Thánh thạch, về lời sấm truyền rằng tôi phải đối diện với cánh cổng của kẻ thù khỏi tôi.

Và tôi những tưởng mình đã đối diện với nó, hồi bị Invierno bắt và suýt bị một gã người thú tra tấn. Nhưng có lẽ là chưa. Có lẽ điều tồi tệ nhất còn chưa tới.

“Ở đây,” ông nói và dùng ngón trỏ chỉ văn bản, “là Lời báng bổ của Lucero.”

Tôi há hốc miệng. “Lucero là họ của con.”

Ông gật đầu. “Văn bản này là văn kiện chính thức về việc phong thánh gần một thế kỷ trước, nhưng bị hội đồng tu sĩ bác bỏ.”

“Không chỉ bác bỏ thôi đâu,” cha Alentín xen vào. “Nó còn bị cấm.”

“Đợi đã. Một thế kỷ? Vậy là…”

“Đấy là người sở hữu Thánh thạch trước con,” Alentín xác nhận.

Lucero. Người mang Thánh thạch trước tôi. Dù ông ấy sống cách nay đã một trăm năm, nhưng tôi bỗng thấy gần gũi với ông ấy hơn ai hết. Tôi run run hỏi, “Vậy sao văn bản này bị cấm?”

Ximena nói, “Thứ nhất là cấu tứ quá khó hiểu. Nó được chắp bút bởi một người không được học hành tử tế; bản gốc đầy rẫy những lỗi chính tả và ngữ pháp. Hội đồng tin rằng Chúa sẽ không bao giờ cho phép những Thánh ngữ của mình không được sạch sẽ.”

Tôi nhìn chăm chú văn bản. Nó đã bạc màu thời gian, nhưng những dòng viết vẫn đều đặn và chính xác, được chép hoàn hảo. “Vậy đây là bản sao.”

Nicandro gật đầu. “Chắc chắn là bản sao của bản sao. Bản gốc đã thất lạc vĩnh viễn. Không ai thấy nó quan trọng để mà bảo quản hết.”

“Và giờ cha cho rằng các tu sĩ đã sai? Có lẽ đó không phải lời báng bổ, mà là Thánh kinh thật sự?”

“Không,” Ximena nói đồng thời với cha Alentín, “Chắc rồi.”

Họ lườm nguýt theo kiểu bạn bè. Rồi Ximena thở dài và nói, “Đây không phải chuyện đơn giản. Nó có thể thay đổi nhiều thế kỷ truyền thống. Hoặc đức tin. Vú phải hoàn toàn đoan chắc trước khi chấp nhận đây là lời của chính Chúa.”

Alentín nói, “Nhưng bà thừa nhận tính khả thi của nó. Chúng ta đang tìm thấy một bằng chứng.”

“Tôi thừa nhận tính khả thi.”

“À há!” Ông nói, như thể đã giành được một chiến thắng lẫy lừng, rồi tôi sốc khi thấy Ximena trợn mắt với ông. Tôi chưa từng thấy bà đáp trả theo cách không lịch sự như thế.

“Vậy cho con biết đi,” tôi nói. “Vì sao mọi người nghĩ đây nên được coi là một Thánh kinh? Nó nói gì?”

Nicandro hắng giọng. “Lucero là một cậu bé tỉnh lẻ nghèo khó, không biết đọc biết viết. Theo như lời nói đầu, cậu ta đọc cho một người bạn nghe, và người này chép vội lên một tấm da cừu. Nhưng người bạn này lại không giỏi đọc viết cho lắm. Văn bản, nếu ta có thể gọi như vậy, được đưa tới tu viện gần nhất, nhưng câu chuyện không được xác thực. Cậu bé kia biến mất. Tu viện đã tìm kiếm cậu ấy hàng năm trời, nhưng vô ích.”

“Thế là các tu sĩ cho đây là sự báng bổ.” Tôi đã hiểu lý do. Họ không cho rằng Chúa sẽ truyền ý mình qua một kẻ nghèo khó, mù chữ dốt nát. Nhưng tôi ấm lòng vì ý nghĩ ấy. Thật tuyệt khi biết Chúa không cho tì vết là trở ngại để thực hiện ý nguyện của mình tại thế giới này.

“Cậu bé đó biến mất xem chừng tiện quá,” Ximena rền rĩ. “Không thể trả lời các câu hỏi hoặc có Thánh thạch cho tu viện làm bằng.”

Alentín nhoài người, mắt sáng lấp lánh. “Người mang Thánh thạch biến mất không phải chuyện quá ư kỳ lạ. Lấy ví dụ ba trăm năm trước. Một cậu bé bốc hơi khỏi tu viện Altapalma, khi chưa phụng sự xong. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra.”

Tôi tưởng tượng họ bỏ trốn – khỏi những kỳ vọng, sợ hãi, vì gánh nặng bởi những quyết định của người khác về cách tốt nhất để hoàn thành ý Chúa. Hoặc có lẽ họ chết yểu, có vẻ đó là số phận của hầu hết những con người sở hữu Thánh thạch. Đó là điều tôi đã buông xuôi chấp nhận khi sống trong sa mạc – tôi có thể chết trẻ trên con đường phụng sự Chúa.

Tôi nói, “Vì sao mọi người cho rằng chúng ta nên nghiêm túc xem xét thông điệp của cậu bé đó?”

“Lucero biết nhiều chuyện,” Nicandro lên tiếng. “Những chuyện mà một cậu bé mù chữ sống nơi tỉnh lẻ không bao giờ có thể biết. Cha sẽ không nói kỹ, nhưng nó khiến cha phải ngẫm lại. Để ngấu nghiến đọc nó. Và rồi cha đọc đến đoạn này.” Cha đưa ngón tay lần tới đúng đoạn mình muốn. “Nào, nữ hoàng, hãy đọc đi.”

Tôi nhoài người, râm ran háo hức, vì biết sắp khám phá ra điều gì đó. “Cánh cổng dẫn đến sự sống rất nhỏ hẹp nên hiếm người tìm ra.” Tôi bối rối ngước lên. “Không có gì mới mẻ hết. Những dòng viết tương tự cũng xuất hiện trong Scriptura Sancta.”

“Đọc tiếp đi,” Ximena nói.

“Chính người hùng sẽ một mình đi qua đó và tìm zafira, vì người đó sẽ bị chính suối nguồn sức mạnh của mình lôi cuốn. Và toàn bộ sức mạnh của thế giới này sẽ dồn vào người đó, và người đó sống bất diệt theo ý Chúa. Không một ai có thể chống lại người đó, và kẻ thù sẽ tan thành mây khói, rất có thể hàng nghìn kẻ sẽ gục ngã trước ý nguyện của người đó.”

Toàn bộ sức mạnh của thế giới này. Thánh thạch rung lên thừa nhận, khiến cảm giác ấm áp lan khắp sống lưng tôi.

“Zafira,” Ximena nói.

“Đúng như gã Invierno nói,” Alentín nhận định.

“Vì sao một cậu bé không được học hành sống nơi hẻo lánh lại biết từ đó?” Nicandro hỏi, giọng dịu dàng ngưỡng mộ. “Nó không được sử dụng kể từ khi những dòng tộc đầu tiên đến thế giới này. Nó thậm chí còn cổ xưa hơn Thánh ngữ.”

Mắt tôi tối sầm lại, không rõ vì sợ hãi hoặc phấn khích, hay kiệt quệ sau khi trị thương cho Hector. Tôi hỏi, “Vậy zafira chính xác là cái gì?”

Alentín nói, “Afflatus nói ma thuật chảy dưới mặt đất và cứ bốn thế hệ một lần, Chúa lại đưa đến một người hùng mang dấu ấn của Ngài và dùng ma thuật chống lại ma thuật.” Tôi thích nghe giọng ông lên bổng xuống trầm mỗi khi trích Thánh thư. Tôi như được trở về hang động nơi sa mạc và cùng ông nghiên cứu trong khi ngồi trên nền đá phiến và vẽ những con chữ lên cát.

Sau một hồi, ông nói thêm, “Thánh thư củng cố tuyên bố của người Invierno rằng zafira là ma thuật của thế giới này.”

Tôi nheo mắt, nghĩ rất lung. “Người thú có thể triệu hồi ma thuật từ bất cứ đâu. Chúng chỉ cần cho mặt đất nếm chút máu. Nhưng Bão nói về zafira như thể đó là một địa điểm cụ thể.”

Ông gật đầu. “Bão cũng nói như thể triệu hồi thứ ma thuật đó không phải điều đơn giản. Nhưng Lời báng bổ của Lucero miêu tả một vết nứt ở thế giới này, nơi suối nguồn sức mạnh sủi tăm lên bề mặt. Cha nghĩ nó nhắc đến một nơi ma thuật của thế giới dễ tiếp cận hơn, hoặc là được tập trung hơn.”

Tất cả nhìn tôi với ánh mắt chờ mong trong khi tôi ngẫm nghĩ.

Tôi bảo, “Chính người hùng sẽ một mình đi qua đó và tìm zafira…” Và ngay khi những lời đó rời khỏi miệng, tôi biết mình muốn gì. Hơn hết thảy.

Nhưng sao tôi có thể làm được điều đó đây? Một nữ hoàng đâu được hưởng cái thú xa hoa là bỏ lại tất cả để theo đuổi một thứ mờ mịt xa xôi.

“Con là người hùng,” Nicandro nói. “Nó còn nói rằng quyết tâm của con sẽ được thử thách. Rằng con phải chứng minh mình xứng đáng. Nhưng nó cũng nói rằng người mang viên đá của Chúa sẽ vượt qua cánh cổng.” Ông nhún vai, thở dài. “Thành thật mà nói, cha thấy chuyện này quá nguy hiểm.”

Lời sấm truyền là thứ khó hiểu, tôi biết, đầy những thật giả lẫn lộn. Sấm truyền có thể giống như sự phản bội của một người bạn thân thiết, sự thất vọng của một đời người, niềm hy vọng của một quốc gia.

“Có thể là nó đó, Elisa,” Ximena nói, đôi mắt đen ánh lên một điều gì đó dữ dội. “Điều con cần chinh phục. Để cuối cùng nắm bắt được số phận mà vú biết Chúa đã định sẵn cho con.”

Tôi không biết vì sao, nhưng lời của bà khiến tôi khó chịu – dù bà có đôi chút đúng. Với sức mạnh như thế, tôi có thể ngăn chặn những âm mưu của Ngũ Trưởng lão. Đánh đuổi kẻ thù. Để vương quốc tôi lại toàn vẹn thống nhất.

“Và Elisa…” Giọng cha Nicandro nặng trịch. “Tốt hơn hết là con đừng nói với ai về Lời báng bổ. Nó là văn bản bị cấm.”

“Thế mà cha lại có một bản chép tay nằm trong thư viện.”

Ông nhúc nhích người trên ghế. “À… không. Là của cha Alentín đấy.”

Tôi phì cười, và Alentín nở một nụ cười tinh quái. Đây chính là người đã trộm bản Afflatus của Homer cổ nhất khi trốn khỏi tu viện Basajuan. Tất nhiên ông có bản Lời báng bổ bị cấm rồi.

“Chúng ta nên thu xếp dần thôi, bầu trời của vú,” Ximena nói. “Chúng ta có thể ra đi…”

Tôi giơ tay ngăn lại. Tôi nói, “Để con nghĩ đã.”