Bão là người đầu tiên nhìn thấy con tàu. “Nó kìa!” Ông ta chỉ.
Tôi quay lại và che mặt nheo mắt giữa trời nắng. Đường bờ biển cong theo hướng đông nam, che khuất thân tàu, nhưng tôi có thể trông thấy rầm néo buồm cao cao, mũi tàu sơn đỏ, và gì đó trông như buồm mũi buông rủ trong buổi ban ngày lặng gió. Tôi vừa hy vọng vừa hoảng hốt.
Cầu Chúa cho đó đúng là con tàu chúng con cần tìm.
Tôi lay Hector. Anh giật mình tỉnh giấc, tay đặt ngay lên bao kiếm.
“Cẩn thận đầu anh,” tôi bảo, chắn tay giữa trán anh và băng ghế bên trên. “Có một con tàu, ở phía nam chúng ta. Tôi nghi là họ thấy chúng ta rồi.”
Anh chớp mắt cho tỉnh ngủ và nhíu mày nhìn những vết rộp ở tay tôi.
Tôi rụt tay lại. “Có đúng là con tàu đó không?”
Vẫn nhíu mày, anh chuồi người khỏi băng ghế để nheo mắt nhìn về hướng nam. Anh im lặng một hồi lâu. “Tôi nghĩ vậy,” anh nói, và vì lý do gì đó mà nỗi phấp phỏng hy vọng trên gương mặt anh khiến tôi không đành lòng nhìn. “Chúng ta phải lại gần hơn nữa mới chắc chắn được.”
Tôi cầm cái mũ vành rộng và ném cho Bão. “Đội vào.”
Ông ta ụp mũ lên đầu và ngồi co lại. Tôi không trách thái độ sợ sệt đó; trên thuyền, bất cứ ai cũng có thể nhận ra ông ta là người Invierno, dù cho đã nhuộm tóc đen.
Hector và Belén lại cầm chèo, chúng tôi rẽ nước khá dễ dàng và nhanh chóng. Mara và tôi nhăn nhó nhìn nhau.
Dần dần con tàu xuất hiện trong tầm mắt. Đó là một chiếc tàu buôn đẹp đẽ có ba cột buồm và những đường chạm khắc tinh tế trên gỗ gụ bóng loáng viền đỏ tươi. Những bông hồng thánh được vẽ uốn lượn trên thân tàu, và trông như những cánh hoa rụng xuống, trở thành từng giọt máu, biến mất trong làn nước biển.
“Là nó,” Hector nói. “Tàu Aracely.”
Tim tôi đập thình thịch. Tôi có cảm giác mình sắp biết một điều rất quan trọng về Hector. “Chúng ta có nên ra hiệu không?” Tôi hỏi.
Anh ngửa đầu cười lớn. Khi tất cả cùng trố mắt nhìn, anh giải thích, “Tôi biết cách để ra hiệu cho họ từ xa. Nhưng biển lặng thế này, chúng ta chỉ việc chèo thẳng tới thôi.”
Bão lầm bầm, “Giờ là lúc gì đó trên chuyến đi bị nguyền rủa này chứng tỏ nó dễ hơn tưởng tượng.”
“Thuyền trưởng và thủy thủ đoàn,” tôi nói. “Họ có biết tôi là ai không?”
“Thuyền trưởng thì biết,” Hector nói. “Chúng ta sẽ nói chuyện với anh ấy trước rồi quyết định.”
Khi chúng tôi tiếp cận chiếc tàu, Bão co người thấp rồi thấp dần trên băng ghế. Những mối nghi ngại đan xen cùng các suy nghĩ, nhưng tôi thấy vui vui. Tôi đã được học về tàu bè và hàng hải, nhưng chưa từng lên tàu.
Những con người xuất hiện trên boong tàu khi chúng tôi thu hẹp khoảng cách. Hai người khác táo bạo treo người hệ thống dây tời; người khác quan sát chúng tôi từ đài quan sát trên cùng ở cánh buồm chính. Tôi rùng mình nghĩ đến việc anh ta ở quá cao, bị gió và nước quăng quật.
Mũi tàu cong cong sừng sững trên cao khi Hector vẫy tay, “Này, Aracely!”
Tiếng chuông vẳng khắp không gian, cho thủy thủ đoàn biết tàu dừng, và họ đáp lại bằng tiếng chân chạy huỳnh huỵch. Thêm nhiều cái đầu lố nhố nhòm qua lan can. Nhóm người đó ăn mặc luộm thuộm, dạn dày nắng gió, tóc dài buộc gọn đằng sau, râu ria chắc phải hai tuần chưa cạo, và có cặp mắt đa nghi.
“Này, tàu đánh cá!” Giọng ai đó vang khắp làn nước. “Chúng tôi thiếu nhu yếu phẩm và cần đổi chác. Tốt nhất là đủ để đến Puerto Verde.”
“Chúng tôi muốn nói chuyện với thuyền trưởng Felix,” Hector hét lên đáp.
Một vài cái đầu biến mất. Những người khác lo lắng nhìn nhau. Một lát sau, một người đàn ông khác xuất hiện, ăn mặc chỉn chu hơn, với áo cánh vải đũi sạch sẽ và áo gi lê dày màu đen che bộ ngực rộng. Tròng trắng mắt anh ta trông trắng đến lạ lùng so với nước da rám nắng. Những hạt cườm được đính vào bộ râu của anh ta; chúng bắt nắng và hắt những tia lấp lánh màu thạch anh và lục bảo. Cổ anh ta dày và nổi gân. Anh ta đặt bàn tay to sụ lên lan can phía trên chúng tôi; anh ta mất hai đốt đầu của ngón tay út bên phải.
Anh ta cau mày tợn khi thấy chúng tôi. “Anh đã sợ là cậu mà,” anh ta càu nhàu bằng cái giọng u ám như màn đêm. Đoạn, anh ta quay lại với thủy thủ đoàn. “Kéo họ lên boong lái.”
Hector cười tươi như một chú nhóc khi anh và Belén chèo thuyền đến trước mũi tàu. Thủy thủ thả xuống vài sợi dây thừng sợi gai dầu to. Hector cầm lấy một sợi và thiện nghệ lặn xuống biển, khiến con thuyền nhỏ của chúng tôi chòng chành dữ dội. Một lát sau, anh trồi lên ở bên kia, với sợi dây thừng trong tay.
Họ quấn thuyền ba vòng và buộc chắc. Hector ra hiệu, và sau một tiếng đếm lớn thì “Kéo!”, chúng tôi rời mặt nước và đong đưa trong không trung.
Khi chúng tôi lên được lưng chừng, Hector nhảy khỏi thuyền vào tấm lưới treo bên mạn tàu và leo lên. Belén trèo theo, và thuyền nhẹ hơn giúp lên nhanh hơn. Khi chúng tôi gần đến độ có thể chạm vào mép tàu, Hector đã có mặt ở đó, nhìn xuống, chìa tay ra cho tôi. Tay anh nắm tay tôi có vẻ thoải mái, khiến tôi ngạc nhiên. Nhờ anh giúp, tôi đẩy người qua lan can và đặt chân lên boong lái.
Khi anh đưa tay xuống giúp Mara và Bão, tôi nhìn quanh. Hầu hết thủy thủ đoàn đang bận kéo thuyền, cánh tay nổi gân và nắm chặt lấy những sợi dây thừng được buộc thắt nút. Nhưng những người khác nhìn tôi tỏ rõ vẻ hứng thú. Một vài ánh mắt dè chừng, đói khát cũng có, như thể tôi là miếng bánh kem xốp thơm ngon rưới mật ong. Bản năng mách bảo tôi tránh xa họ, nhưng mông tôi chạm phải lan can và tôi nhận ra mình chẳng còn chỗ nào để đi.
“Một cô gái!” Có người nói khẽ mà tôi nghe rõ mồn một.
“Hai cô,” người khác nói khi Mara trèo lên tàu.
“Tôi không thấy cô gái nào ở đây hết,” thuyền trưởng rống lên. “Mấy anh cũng chẳng thấy ai hết. Đi làm việc ngay.”
Các thủy thủ kéo thuyền nhỏ ra đuôi tàu, buộc vào mấy cái vòng sắt mà tôi nhận ra được dùng chính cho mục đích đó.
Những người khác vẫn chăm chú nhìn Mara và tôi không một chút xấu hổ, dù đã quay lại làm việc của mình. Tôi nhìn trả, cố tỏ vẻ không nao núng. Ít nhất họ nhìn chúng tôi chứ không để ý đến Bão. Có lẽ họ sẽ không để ý tới chiều cao bất thường hay đôi mắt sáng như ngọc lục bảo của ông ta.
Thuyền trưởng da nâu đưa cánh tay vạm vỡ chỉ đường cho chúng tôi. “Đường này. Tới phòng tôi ngay.” Giọng giục giã của anh ta vang như sấm, như tiếng thùng gỗ rỗng lăn trên sân đá cuội.
Chúng tôi rảo bước trên boong chính nhanh gần như chạy, rồi quặt dưới boong lái và đi qua cánh cửa đôi bằng kính. Anh ta đóng cửa lại và cài chốt.
Phòng thấp và hoàn toàn bằng gỗ gụ bóng lừ. Ánh sáng đổ vào từ những ô cửa sổ, mỗi bên hai ô. Một chiếc bàn lớn la liệt giấy tờ và mực, còn những dụng cụ kim loại nho nhỏ, tôi không hiểu có tác dụng gì, được treo gần kín một bức tường. Thò ra từ bên tường đối diện là một chiếc giường lớn phủ vải lụa màu lựu đỏ. Một tấm thảm dày trải sàn, thêu hình một chùm nho tím nằm giữa vòng tròn dây leo xanh – biểu tượng của Ventierra.
Thuyền trưởng nhìn chúng tôi, và một nụ cười tươi làm bừng sáng gương mặt anh ta. Tôi giật mình nhận ra. Tôi biết nụ cười đó. Tôi từng trông thấy phiên bản khác của nó rất nhiều lần.
“Hector!” anh ta nói, dang rộng vòng tay, và thống lĩnh Ngự Lâm quân của tôi lao vào vòng ôm đó rồi đấm mạnh vào lưng người đàn ông kia.
Thuyền trưởng giữ tay Hector và đẩy anh lùi ra để ngắm nghía, trong lúc Hector cười như một cậu nhóc. “Nhìn em kìa,” thuyền trưởng lẩm bẩm. “Một thành viên Ngũ Trưởng lão cơ đấy.”
Tôi nói, “Anh là anh trai của Hector.”
Ánh nhìn của anh ta chĩa sang tôi, và đôi mắt nheo lại. Anh ta nhìn kỹ từng phần cơ thể tôi: khuôn mặt bẩn thỉu, bím tóc rối bù, ngực, chân, bàn chân. Có gì đó sáng lên trong đôi mắt đen của anh ta, như thể anh ta nhận ra điều gì đó. Mặt tôi nóng rực, nhưng tôi không nao núng.
Anh ta nhẹ nhàng nói, “Còn cô là nữ hoàng trẻ của cậu ấy.” Đoạn, anh ta khuỵu một chân trông uyển chuyển hơn so với một người có kích thước như vậy. “Chào mừng nữ hoàng lên tàu Aracely.”
“Cảm ơn anh. Xin hãy đứng dậy.”
Anh ta đứng lên và nhìn Hector trách móc. “Em đang nhờ anh một chuyện rất nguy hiểm đó, nhóc con ạ. Thuyền vốn đã chở rất nặng rồi. Nó không nên ở gần bờ biển thế này. Hẳn em có lý do đúng đắn chứ?”
Hector gật đầu. “Chắc hẳn anh đã nghe chuyện nữ hoàng đang trên đường xuống miền Nam để thỏa thuận đính ước với Selvarica?”
“Ừ, cả đất nước đang xôn xao chuyện ấy.”
“Đó là bịa đặt.”
Thuyền trưởng Felix nhướng mày.
“Đúng là bọn em cần đi về phương nam,” Hector tiếp tục. “Nhưng chúng em bị bám đuôi bởi một gián điệp Invierno, một sát thủ được đào tạo bài bản. Theo những lần ám sát nữ hoàng bất thành gần đây, chúng em nghĩ tốt hơn hết là nên trốn đi.”
Tôi trố mắt nhìn Hector. Chắc hẳn anh rất tin tưởng anh mình nên mới nói ra toàn bộ sự tình. Mara khó chịu nhúc nhích bên cạnh tôi.
Thuyền trưởng rời xa tầm tay của Hector và khoanh tay. “Em muốn anh đưa em xuống miền Nam,” anh ta bảo.
“Đúng.”
“Không thể.” Anh ta quay sang tôi. “Tôi rất tiếc, thưa nữ hoàng, nhưng tôi đang chở cả một tàu rượu nho đầu mùa, vụ thu hoạch tốt đầu tiên kể từ trận bão ba năm trước. Tôi phải đến cảng để tôi có tiền trả công cho người của mình, và mang rất nhiều nhu yếu phẩm trở về.”
Lúc đầu, vẻ mặt Hector nghiêm khắc và khó hiểu. Nhưng tôi biết chính xác giây phút anh quyết định hành động tiếp. Anh sẽ chỉ huy con tàu của chính anh mình. Anh có quyền, vì là một thành viên Ngũ Trưởng lão. Nhưng dù tình cảm anh em có khăng khít thế nào cũng không tránh khỏi sứt mẻ vì chuyện như thế. Và tôi không thể chịu nổi chuyện ấy xảy ra. Không phải vì tôi.
Anh mở miệng định ra lệnh, nhưng tôi xen ngang. “Anh có thể bán hàng hóa ở Puerto Verde chứ?”
Hector ngậm miệng và chăm chú nhìn tôi. Tôi khẽ lắc đầu mong là anh hiểu. Đừng làm vậy.
“Được,” thuyền trưởng nói. “Nhưng chúng tôi sẽ chỉ bán được nửa giá. Người Orovalle mới trả giá cao nhất.”
Tôi cười vì nhớ ra. “Tất nhiên rồi. Rượu Ventierra rất được vương quốc cha tôi yêu thích. Anh không ngại nếu chúng ta ngồi xuống chứ?”
“Xin mời,” anh ta vẫy tay ra hiệu. “Chỗ nào cũng được.”
Tôi ngồi xuống chiếc nệm gần nhất và nói. “Hành trình đi Orovalle và trở về rất dài. Anh có thể gặp phải mùa bão.”
Anh ta cười vì hiểu rằng chúng tôi sắp thương lượng. “Đấy là một trong rất nhiều nguyên nhân tôi thích đời thủy thủ,” anh ta nói. “Nữ hoàng không thấy sao, khi cô và thần chết là bạn đồng hành, đó là lúc cô thấy mình đang sống hết mình nhất ư?”
“Tôi không rõ nữa.”
Mắt anh ta mở lớn. Anh ta tưởng sẽ làm tôi nao núng khi nhắc đến mấy lần suýt mất mạng.
“Tôi luôn đồng hành với thần chết. Kể từ ngày tôi rời lâu đài của cha tôi. Số lần tôi suýt chết nhiều hơn tôi có thể đếm được. Và tôi mang Thánh thạch, nghĩa là rất có thể tôi sẽ chết yểu. Vậy nên, anh thấy đấy” – tôi nhún vai cố ý tỏ vẻ hờ hững – “tôi không nhận ra sự khác biệt.”
Bộ râu xồm của anh ta che mất nụ cười, nhưng đôi mắt nheo lại hứng thú. “Mục đích của cô là gì?”
Tôi có linh cảm về anh ta, về kiểu người đó. Kiểu người nào dám rời bỏ cuộc sống nhung lụa của con trai bá tước để sống giữa bốn bề sóng nước? Hy sinh tuổi trẻ cho nắng gió bất tận, đôi bàn tay cho biển cả? Một người yêu sự khoáng đạt và nguy hiểm, tôi dám cá bằng cả vương miện Thánh thạch của mình. Một người không thể đợi để xem điều gì nằm ngoài đường chân trời kia.
“Danh dự ép buộc tôi phải nói trước với anh thế này,” tôi nói, “rằng hành trình của chúng tôi nguy hiểm và đích đến không rõ ràng.”
Rõ rành rành một bên lông mày của anh ta nhướng cao, vẻ mặt rất quen thuộc, rất thân thương, khiến tôi không thể không mỉm cười. “Ồ?” Anh ta cất tiếng.
“Tôi cần một thuyền trưởng và thủy thủ đoàn có thể tin tưởng tuyệt đối. Vì đây là chuyến đi bí mật. Ngoài gian phòng này, chỉ có một ít người biết mục đích của nó.”
Anh ta ngẩng đầu nhìn tôi qua đôi mắt khép hờ. “Có vẻ có người sẽ trả giá cao cho một chuyến mạo hiểm như thế.”
“Tôi thì thấy chuyện bí mật tôi cần là vô giá. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu.”
Mắt anh ta sáng lên, và anh ta có vẻ thật sự tứa nước bọt vì điều tôi sắp đề nghị. Tốt. “Hãy bắt đầu với lượng hàng tôi bị mất. Tôi cần được đền bù.”
Tôi nói. “Cũng công bằng.”
“Và tôi cần thêm nhu yếu phẩm.”
“Nếu đến Orovalle anh cũng cần từng đó nhu yếu phẩm,” tôi huỵch toẹt. “Chỉ là bây giờ anh sẽ đi hướng khác.”
“Tôi cần được đền bù cho mối nguy hiểm cô vừa nhắc tới, và để đảm bảo lòng trung thành của thủy thủ đoàn.”
“Các thủy thủ trung thành với tiền chứ không phải với anh?”
“Họ trung thành với tôi vì tôi luôn giữ lời hứa đem tiền đến cho họ. Cô có mang ít nào cho tôi chăng?”
Tôi ngần ngừ.
Anh ta nhìn Hector, rồi giơ tay lên trời tỏ vẻ thất vọng có lẽ hơi kịch.
Tôi đã gợi được sự tò mò hứng thú nơi anh ta, chắc rồi, nhưng đến đây thì tôi thua. Tôi đã hy vọng có thể thương lượng dựa trên uy tín của hoàng gia. Nhưng tôi không có tiền trong tay, không ngựa hay…
“Tôi có nghệ tây,” Mara nói. “Đủ để đổi tiền nhét đầy túi các thủy thủ của anh và dư ra chút đỉnh.”
Tôi quay sang nhìn cô, nhớ cô đã cẩn thận bảo quản túi gia vị suốt hành trình cho đến lúc này. “Mara, cô chắc chứ?”
Đáp lại, cô rút một lọ sứ nhỏ khỏi túi và đưa cho Felix. Anh ta giả đò không hứng thú, nhưng đôi mắt sáng lên khi đưa lọ lên mũi.
“Theo ý tôi anh sẽ bán hàng ở Puerto Verde,” tôi nói. “Được bao nhiêu thì được. Lọ nghệ tây sẽ bù vào phần còn lại.”
Nhưng sao tôi có thể bồi thường cho thuyền trưởng vì đặt con tàu lẫn thủy thủ đoàn vào vòng hiểm nguy? Tôi cắn môi, nghĩ rất lung, trong khi thuyền trưởng Felix mở nắp lọ và kiểm tra kỹ thứ bột bên trong.
Tôi nảy ra một ý. Dù tôi không có tiền để mặc cả, nhưng là nữ hoàng, tôi sở hữu thứ đáng giá hơn nhiều. Tôi nói thêm, “Và vì chịu đưa chúng tôi tới nơi chúng tôi muốn, một cách trung thành và quả cảm, tôi sẽ viết thư gửi bếp trưởng của tôi, trên có dấu xi riêng, tuyên bố Ventierra là nơi cung cấp rượu chính thức cho hoàng gia.”
Anh ta há hốc miệng, và giọng nói hụt hơi đã bán đứng vẻ hững hờ khi quay sang Hector và nói, “Chúng ta sẽ phải bán toàn bộ hàng hóa, cả những thùng rượu lâu năm nhất có giá cao ngất ngưởng để mua đủ lương thực thực phẩm cho chuyến đi. Chúng ta sẽ phải trồng lại vườn nho phía nam.”
“Vâng,” Hector nói. “Chúng ta sẽ phải làm tất cả những việc đó.” Nhưng anh đang nhìn tôi, có chút bối rối.
“Vậy chúng ta đã thỏa thuận xong?” Tôi hỏi, “Vì nếu không, người của anh nên hạ thuyền của chúng tôi xuống trước khi chúng ta quá xa đất liền.”
Thuyền trưởng cúi xuống đưa đôi bàn tay to lớn nắm bàn tay tôi. Anh ta dừng lại, nhận thấy những vết rộp sau vụ cố chèo thuyền thảm họa vừa rồi. Tôi quyết không nhăn mày. Thay vào đó, tôi bóp mạnh tay anh ta, và vẻ mặt anh ta thể hiện ít nhiều tôn trọng.
“Nữ hoàng, chúng ta đã thỏa thuận xong.” Bộ râu của anh ta làm những mấu tay tôi ngứa ngáy khi anh ta hôn chúng.
“Anh còn chưa hỏi chúng ta sẽ đi đâu!”
“Để sau,” anh ta nói, mũi chun lại tỏ vẻ khó chịu. “Trước hết, tất cả đi tắm đi. Tôi chỉ có nước biển, nhưng xin mọi người đấy. Tất cả bốc mùi gì khó ngửi lắm.”
“Em không ngửi thấy mùi gì ngoài mùi dầu cá trên râu anh,” Hector nói, rất nghiêm túc.
Felix cười thoải mái, không hề giống người em mình. Ra cửa, anh ta vỗ vai em trai và nói, “Nữ hoàng của em xoay anh như xoay chong chóng ấy, nhỉ?”
“Vâng,” Hector đồng tình, dù gương mặt nghiêm nghị, đôi mắt lấp lánh.
“Hãy ở nguyên đây trong khi tôi đi thu xếp,” thuyền trưởng nói với những người còn lại. “Tôi cần đánh giá lại thủy thủ đoàn và xem nên cho ai lẳng lặng xuống tàu trước khi mọi người thường xuyên xuất hiện trên boong.”
Khi cửa đã đóng, Hector nói, “Cảm ơn cô, Elisa.”
“Không có gì.”
“Tôi không nghĩ anh ấy để ý đến Bão,” Mara nói.
Gã người Invierno ngồi thu lu trên tấm nệm bên cạnh tôi, một phần cơ thể bị cái bàn to tướng của thuyền trưởng Felix che khuất.
“Ồ, có chứ,” Belén lầm bầm. Anh đang dùng con dao nhỏ để cạy móng tay.
“Felix tin tôi,” Hector giải thích. Nhưng anh ta nhìn Bão với vẻ hồ nghi, hoặc hối hận vì đã đem một con dân Invierno lên tàu của anh mình.