Màn đêm buông xuống sớm cùng với mây mỗi lúc một dày. Thủy thủ thắp đèn lồng trên tàu và lẳng lặng làm nhiệm vụ buộc hàng, kiểm tra dây tời hết lần này đến lần khác. Tôi kinh ngạc vì họ đã dũng cảm chấp nhận. Họ vẫn né tránh tôi, nhưng sau khi quan sát họ làm việc một lúc, tôi không thể kiềm được: tôi phải tìm họ. Với Hector đi cùng, tôi vỗ vai từng người, hỏi tên, và nói “cảm ơn”. Lại gần, tôi mới trông thấy nét sợ hãi trên gương mặt khắc khổ của họ. Nhưng họ vẫn cúi đầu và ngượng nghịu nói, “Cảm ơn nữ hoàng.”
Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi sắp phải đối đầu với một cơn bão lớn. Những cây đèn bắt đầu rung lắc dữ dội khi chúng tôi dập dềnh trên biển. Nước tung bọt trắng xóa cứ chốc chốc lại trùm lên mũi tàu, làm ướt đẫm tất cả. Chúng tôi cuốn bớt buồm để đón ít gió đi, và vài thủy thủ treo người trên tời, sẵn sàng cắt buồm nếu cột buồm có gãy.
Tôi đứng cùng Felix và Hector gần bánh lái tàu, vì chắc chắn chúng tôi đã đi lệch đường. Không một con tàu nào có thể xông thẳng vào tâm bão. Chúng tôi chỉ có thể chạy chữ chi, đè sóng dấn tới mỗi khi có thể để tránh bị lật. Thánh thạch và tôi sẽ là la bàn, cho chúng tôi biết đúng hướng trong lúc cố gắng hết sức sửa sai. Hector cầm một cuộn dây chão to trong tay, sẵn sàng cột tôi lại nếu sóng đe dọa kéo chúng tôi xuống biển.
Tôi cố lắm mới đứng vứng trong khi thuyền nhấp nhô chao đảo. Ban đêm, những con sóng to tướng đen sì sủi bọt trắng xóa dâng cao quá mạn tàu, nhưng lúc nào cũng vậy, vào thời khắc cuối cùng, mũi tàu chúng tôi lại xông qua và tôi nhẹ cả lòng khi chúng tôi chuồi ra khỏi cơn sóng.
Felix bảo rằng giờ chưa đến lúc phải sợ, rằng họ từng vượt qua thời tiết khắc nghiệt hơn. “Chúng ta mới ở ngoài rìa cơn bão thôi, nữ hoàng ạ,” anh ta cười, trông điên khùng nhiều hơn hài hước. “Điều tồi tệ nhất còn chưa tới.”
Một người lớn tuổi râu bạc mất một bên rái tai chạy vội tới gặp thuyền trưởng và hét lên, “Khoang đáy sắp đạt mức một.”
“Là sao?” Tôi hét qua tiếng gió.
“Nước hắt lên ngấm xuống khoang đáy,” Hector gào đáp. Gió thổi tóc anh xoăn tít, rối tung. “Lúc nào cũng có người vận hành hệ thống bơm nước ra ngoài, nhưng nếu nước dâng cao, chúng ta phải dùng cả xô nữa. Nếu nước vượt qua ngưỡng ba, tàu sẽ chìm.”
Và mưa bắt đầu táp xuống rát da rát thịt.
Boong tàu trơn và lạnh cóng. Tôi bám vào lan can chạy ngang boong giữa dường như được dùng vào đúng mục đích này. Bầu trời lóe sáng hơn ban ngày trong một tích tắc trước khi sấm nổ rền vang.
Cầu Chúa chỉ đường cho chúng con và bảo vệ chúng con được an toàn.
Một chút ấm áp lan khắp người, tạo nên cảm giác lôi kéo mạnh hơn bao giờ hết.
Hector cúi sát lại. “Cô vừa cầu nguyện, phải không?”
Tôi ngạc nhiên nhìn anh.
“Tôi nhìn là biết,” anh nói. “Gương mặt cô thay đổi.” Anh khẽ cười, như thể chúng tôi có chung một bí mật. Ánh đèn soi tỏ các góc cạnh của gương mặt ướt nước biển của anh.
Con tàu nghiêng ngả, làm tôi ngã vào anh. Một tay anh ôm tôi, tay kia bám chắc lan can. “Có lẽ để cô lên boong không phải ý hay,” anh nói thầm vào tai tôi. “Cô nghe Felix nói rồi đấy. Chuyện sẽ còn tệ hơn.”
“Tôi phải giúp chỉ hướng tàu!”
“Sẽ đến lúc chẳng còn điều gì quan trọng nữa, khi chúng ta chỉ cần sống còn mà thôi.”
Tôi ngước nhìn anh, ý thức được rằng dù cho bao chuyện đang diễn ra, cơ thể chúng tôi đang dán sát vào nhau. Nếu tôi không sống qua nổi thì sao? Chẳng ai ngạc nhiên nếu tôi chết trẻ, như hầu hết những người sở hữu Thánh thạch khác.
Hoặc tệ hơn, nếu như anh không qua nổi thì sao? Tôi đã mất Humberto trước khi kịp cho anh ấy biết cảm xúc của mình. Tôi không chịu nổi một lần nữa.
“Hector, tôi cần phải nói với anh…”
“Ồ không, cô không cần đâu,” anh nói, áp một ngón tay lên môi tôi. “Đừng tạm biệt, đừng thú nhận cái gì. Vì chúng ta sẽ sống. Cả hai ta. Đó là niềm tin, phải không?”
Sét rạch bầu trời đằng sau anh, như để nhấn mạnh thêm. “Vâng,” tôi nói. “Niềm tin.” Anh nói đúng. Tôi cần chuẩn bị để sống, chứ không phải chết.
Có lẽ tôi đã chuẩn bị chết quá lâu – kể từ cái ngày ở sa mạc, khi tôi quyết định thà chết khi phụng sự Chúa còn hơn sống vô dụng. Và có lẽ điều đó sẽ thành sự thực. Có thể trong tối nay.
Nhưng đột nhiên tôi chỉ muốn làm một điều gì đó – bất cứ điều gì – để chứng minh rằng tôi sẽ không chết, để cảm nhận một thứ sức mạnh nào đó với tương lai đã được xác định trước của mình. Mặt Hector rất gần. Tôi dễ dàng vòng tay quanh cổ anh, áp môi tôi vào môi anh, và hôn anh tới khi cả hai cạn dưỡng khí.
Tôi không chỉ muốn từ Hector một nụ hôn sai thời điểm. Không, tôi muốn nhiều hơn từ cuộc đời này. Tôi siết nắm đấm, và móng tay đâm vào lòng bàn tay trong lúc tôi nghĩ, Định mệnh tưởng sẽ dành cho mình sẽ bị nhấn chìm dưới đáy biển. Cùng với mọi kế hoạch người khác dành cho mình.
“Elisa?”
“Tôi sẽ trở lại ngay!” Tôi hét và chạy nhanh trên boong tới buồng thuyền trưởng Felix.
Tôi đập cửa, và Mara giật mình, ngước nhìn. Cô đang ngồi bó gối trên sàn tại chân giường, và nước mắt chảy dài trên má. “Elisa?” Cô run rẩy nói.
Tôi khiến nước nhỏ tong tỏng khắp nơi khi cầm hành lý bỏ xuống bên cạnh cô. Con tàu lắc lư trong lúc tôi lục lọi bên trong, tìm bức tượng trần truồng đựng hạt trinh nguyên.
“Cô đang làm gì thế?”
“Chuẩn bị để sống,” tôi đặt tay lên nắp lọ.
Mara giữ cổ tay tôi. “Gượm đã.” Cô cho tay vào túi và lấy ra bức tượng tương tự. “Tôi cũng vậy,” cô nói, cười run rẩy. “Sẵn sàng chưa?”
Đáp lại, tôi mở nắp và đổ vài hạt ra tay. Cô cũng làm vậy. Cùng nhau, chúng tôi nhét hạt vào miệng và bắt đầu nhai. Chúng cứng, đắng nghét, có vị hơi giống vỏ chanh.
Tàu lại chao đảo, và tôi suýt nghẹn. Chiếc ghế trong phòng thuyền trưởng trượt trên sàn và đổ kềnh bên chân chúng tôi. Mara nức nở. Tôi ôm cô, và cô ôm tôi, chẳng thèm để tâm tôi đang ướt như chuột lội. Tôi không nên nán lại, nhưng tôi cố hưởng thụ cái xa xỉ của cảm giác được đánh cắp khoảnh khắc trân quý này cùng bạn mình.
“Cô nên đi đi,” cô buông tôi ra và nói.
Tôi đứng dậy, và dù sàn lắc lư, tôi đã thấy ổn định hơn một lúc trước. “Hãy ở nguyên đây. Tôi không muốn cô rơi xuống biển.”
Cô gật đầu. “Bảo trọng nhé, Elisa.”
Tôi mở cửa, chỉ thấy nước đen quất vào mặt. Nước tràn vào cửa. Hector đã có mặt, như thể đang đứng gác, và giúp tôi đóng cửa.
Tiếng cảm ơn của tôi bị gió cuốn đi khi chúng tôi gồng người lảo đảo đi trên boong. Thuyền trưởng Felix đang tự điều khiển bánh lái. “Nữ hoàng hãy cho tôi biết phương hướng,” anh ta hô to.
Tôi nắm chặt lan can và nhắm mắt. Gió hắt nước mưa vào mặt tôi, và mất một lúc tôi mới tập trung được để cảm nhận lực kéo, nhưng nó có đó, rõ ràng và đều đặn. Tôi chỉ về mạn phải. “Hướng đó.”
Nhưng tôi không cho anh ta biết Thánh thạch đột ngột lạnh cóng.
Felix ra lệnh và đánh bánh lái trong lúc những người khác điều chỉnh buồm, và từ từ, chậm rãi, chúng tôi chiến thắng sóng gió để đi về hướng mới.
Suốt một giờ tiếp theo, sóng dần dâng cao hơn, làm tàu nghiêng đáng sợ. Tay tôi cứng đờ vì buốt giá, và tay nắm lan can của tôi bị tuột. Tôi trượt trên boong và đành ngoắc chân vào lan can. Lúc đó, Hector quyết định neo tôi lại. Anh cuốn một vòng dây quanh eo và cột một nút nhanh nhưng chắc.
Sau đó, anh lôi một con dao dài khỏi giáp bảo vệ tay và cắm nó vào tấm ván bên cạnh đầu gối tôi. “Nếu tôi gặp chuyện chẳng lành,” anh hét, “cô có thể cắt dây thoát ra.”
Tôi gật đầu, cầu nguyện, Xin Chúa đừng để chuyện gì xảy ra với anh ấy.
Chớp rạch ngang trời, chiếu sáng một đám mây kỳ dị nhất mà tôi từng trông thấy. Nó giống một ngón tay dài khoằm chọc xuống mặt biển đang thét gầm giận dữ, làm bọt nước bắn lên muôn hướng.
Tôi giật quần Hector và chỉ. Nhưng chỉ có bóng tối, còn anh bối rối nhìn tôi. “Đợi có chớp đã. Nhìn kìa!”
Lần tiếp theo sét xé toang bầu trời, đám mây hình ngón tay còn gần hơn, đến độ làm tôi hiểu đó là quyền năng như của Chúa, rằng ngay cả đại dương dũng mãnh đang hất chúng tôi như miếng gỗ mục cũng bó tay trước nó.
“Là bão!” Hector hét, và những người khác cũng hô theo, nhưng âm thanh bị tiếng gió gào mưa rít át mất.
Thuyền chao đảo, mạnh và nhanh đến độ Hector ngã uỵch xuống boong. Anh trượt về phía mạn tàu.
“Hector!” Tôi với, nhưng sợi thừng buộc ngang eo giữ chặt tôi lại.
Anh bấu víu lấy ván sàn, nhưng Aracely tiếp tục nghiêng. Nước đổ vào anh, và tôi biết anh không thể bám trụ được lâu.
“Felix, giúp với!” Tôi hét, nhưng sấm nổ rền, và anh ta không nghe thấy. Anh ta đang trầy trật điều khiển bánh lái, gắng sức lái con thuyền đè lên cơn sóng trước khi chúng tôi bị lật.
Tôi nắm con dao găm gần đầu gối. Tôi phải dùng đến cả hai tay. Tôi định cắt sợi thừng quanh eo, nhưng rồi nảy ra một ý hay hơn.
“Hector!” Tôi vẫy dao cố làm anh chú ý, rồi ra hiệu cho anh biết tôi sắp làm gì. Anh gật đầu một cái, mặt căng thẳng.
Tôi nhắm cẩn thận, rồi đẩy trượt dao về phía anh. Anh bám bằng một tay, tay kia với ra bắt, xoay dao và cắm mạnh lưỡi dao xuống boong.
Tôi hít thở dễ dàng hơn, vì biết anh sẽ bám được lâu hơn. Hy vọng đủ lâu trong khi chúng tôi vượt qua cơn sóng này.
Toàn bộ thủy thủ có mặt đều đang ở bên kia tàu, bám lấy lan can, cố dùng sức nặng của mình để giữ Aracely không bị lật nhào. Felix tiếp tục chiến đấu với bánh lái, hăng hái ra hiệu điều chỉnh các cánh buồm.
Tôi nhìn các cột buồm và nhận ra vấn đề: buồm lái không xoay như những lá buồm khác. Hẳn có gì bị hỏng; nó đang kéo chúng tôi, không cho chúng tôi lái thẳng vào cơn sóng. Hai người đang treo như nhện trên dây tời, cắt dây thừng để loại bỏ lá buồm kia.
Hector bắt đầu bò úp về phía tôi, sử dụng con dao để kéo người lên, như vậy anh sẽ mất một tích tắc để thay đổi vị trí cắm dao, và anh phải bấu bằng đầu ngón tay một bên. Tôi hét bảo anh dừng lại, nhưng nước biển tạt vào miệng làm tôi bị sặc.
Tiếng gì đó nghe như tiếng trống, và buồm lái đổ xuống vào một khoảnh khắc trước khi bị gió quật gãy đôi. Chỉ còn một người trên hệ thống dây tời gần cột buồm. Người còn lại đâu mất rồi?
Tôi bỗng nhận ra. Ôi Chúa ơi. Anh ta đã rơi xuống biển.
Nhưng bây giờ con tàu đã bắt đầu quay, chậm đến phát bực. Mũi tàu nhô lên. Nước hắt vào mặt tôi, xộc vào lỗ mũi. Tôi chịu đựng và há miệng cố hít thở khi rầm néo buồm cắt đôi đầu ngọn sóng.
Và rồi chúng tôi đổ xuống, nằm giữa hai cơn sóng. Tôi cảm nhận tay Hector vòng ôm mình khi cuối cùng chúng tôi cũng được thăng bằng.
Cảm ơn Chúa. Con cảm tạ Ngài. Hector mệt mỏi dựa vào vai tôi, và ngực anh phập phồng khi ho nước khỏi phổi. Anh bám lấy tôi để lấy lại sức, thay vì dùng sức như mọi lần.
“Nữ hoàng!” Thuyền trưởng Felix hét. “Hướng nào?”
Lực kéo mạnh hơn bao giờ hết. Tôi chỉ, lần này về bên trái, khi chớp lóe sáng cả bầu trời.
Tôi đang chỉ thẳng vào cơn bão đang sắp ập lên chúng tôi.
Thuyền trưởng trân trối nhìn tôi, sững sờ vì hoảng hốt. Bộ râu bết rịt vào mặt, và dường như tôi đang trông thấy một phiên bản đen tối hơn, lôi thôi hơn của Hector. Anh ta định phản đối, nhưng một thủy thủ lao đến bánh lái. “Khoang đáy đã đạt mức ba,” anh ta hét. “Chúng ta không tát nước ra kịp.”
Một tay vẫn ôm Hector, tôi áp tay kia lên bụng. Sợi thừng buộc ngang eo ở ngay đó. Tôi kéo nó xuống để sờ được Thánh thạch, và trong lúc đó làm xước da qua cái áo cánh đẫm nước biển.
Tôi áp đầu ngón tay lên viên đá. Con nên làm gì đây? Con biết con phải tin tưởng, nhưng thưa Chúa, chuyện này là bất khả.
Thuyền đột nhiên ổn định, dù nước vẫn hắt lên từ mọi hướng. Đó là cơn bão, mạnh hơn mọi cơn sóng, làm nước xung quanh phẳng lặng trước khi hút tất cả lên.
Hector dịch người cho tôi ngồi giữa hai chân anh. Một tay anh ôm lan can, tay kia ôm tôi, như thể anh có thể bảo vệ tôi khỏi con quỷ đang nhăm nhe tấn công chúng tôi.
Tôi dựa vào anh và hé miệng nói thầm vào tai anh. “Hãy cầu nguyện cùng tôi.”
“Được.”
Tôi tìm tay anh, đặt lên rốn mình, áp đầu ngón tay anh qua cái áo cánh tới Thánh thạch. Tôi giữ im ở đó trong khi ngâm nga, “Người đi con đường của Chúa sẽ được ban phước. Người đó sẽ chẳng hề lạc sang trái hay phải, vì bàn tay phải chân chính sẽ dẫn dắt người đó trong suốt cuộc đời.”
Hector cũng lẩm nhẩm, liến thoắng, dù tôi không nghe rõ lời nào. Có sức mạnh trong đó, vì chúng tôi cùng cầu nguyện; nó hình thành bên trong tôi.
“Người hùng không được nao núng,” tôi nói, khi hơi ấm lan ào ào khắp người làm thân thể tôi run rẩy, tới khi tôi như ly nước sắp tràn. “Đúng, dù người đó phải vượt qua bóng tối, người đó sẽ không sợ hãi, vì bàn tay phải chân chính của Chúa…”
Một tiếng nổ vang lên, còn lớn hơn tiếng sấm. Tôi mở mắt, thấy cơn bão đã bẻ rầm néo buồm làm đôi. Nước hắt lên má và mắt làm tôi đau đớn. Trong phút chốc nữa thôi, tàu sẽ tan tành và bị cuốn trôi đi mất.
Tay Hector chuồi vào dưới áo cánh của tôi, vuốt qua da, sờ tìm Thánh thạch. Anh nhẹ nhàng ấn. Tôi áp tay tôi lên tay anh. “Người hùng không được nao núng,” anh nói khẽ vào tai tôi. “Đúng, dù nàng phải vượt qua bóng tối, nàng sẽ không sợ, vì bàn tay phải chân chính của Chúa sẽ cứu sống và cho nàng thắng lợi cuộc đời mới.”
Cảm giác ấm áp bùng lên mãnh liệt. Cơ thể tôi nóng ran, với khát vọng và cả tuyệt vọng. Thánh thạch hưởng ứng, truyền đi sức mạnh không được sử dụng. Chúa ơi, con muốn được sống. Con muốn tất cả đều được sống. Con nên làm gì đây? Vì sao Ngài dẫn chúng con đến đây?
Lại một cánh buồm rách rời từng mảnh. Tàu bắt đầu xoay tròn.
Và rồi tôi cảm nhận thấy những xúc tu bé tí xíu cuộn tròn trong tôi. Tôi không nhìn thấy, nhưng cảm nhận được, như ma trơi bay trong gió, đến từ mọi hướng. Tôi biết rõ chúng, vì tôi đã sống với chúng cả cuộc đời.
Những lời cầu nguyện.
Giờ mọi người trên tàu đều cầu nguyện, tôi chắc chắn. Và suy nghĩ tuyệt vọng của họ bay về phía tôi, tiếp thêm năng lượng cho Thánh thạch.
Bão xé toang một bên thân tàu. Những tấm ván và mảnh gỗ vụn bay tứ tán.
Tiếng cầu nguyện của Hector dừng lại. Bàn tay nắm tay tôi bỗng sững ra một lát trước khi nắm lại, thậm chí còn mãnh liệt dữ dội hơn. Rồi đôi môi ướt lạnh của anh áp lên má tôi, ngay trước dái tai tôi.
Anh nói, “Tôi yêu em, Elisa.”
Có gì đó vỡ vụn trong tôi. Thế giới lóe sáng hơn ban ngày trong một khoảnh khắc ngắn ngủi – những mảnh tàu vỡ xoay tròn trên không, và phía trước là cơn sóng lớn nhất tôi từng biết – đen sì, đáng sợ – và rồi chẳng còn gì ngoài bóng tôi, sự tĩnh lặng như cái chết.
Tôi không thấy gì. Tôi không cảm nhận được tứ chi của mình. Tôi không nghe thấy gì hết. Như thể tôi đã ngừng tồn tại, chỉ còn lại suy nghĩ của tôi tồn tại giữa bao la vô tận.
Và rồi tôi nghe thấy tiếng tim đập, thật sự và vững vàng. Không, là hai tiếng, của tôi và của Hector, gần như hòa làm một.
Rồi chẳng còn gì nữa.