Sớm mai đến cùng một trận mưa bụi, nhưng bầu trời nhanh chóng trong xanh trở lại, và hơi nước cùng mùi lông dê ướt bốc lên từ những căn lều của chúng tôi trong nắng bình minh. Hector chạy vội trốn dưới cây dừa gần đó, dùng cả tay và chân mà lay. Anh kéo một vài cây dừa xuống thấp sát đất. Mara đục lỗ rồi tẩm bột quế và mật ong, và chúng tôi ngồi quanh hố lửa đã ướt, uống nước dừa thay bữa sáng.
Một nhóm thủy thủ cầm rìu đi chặt một lùm cây keo lấy gỗ sửa tàu, trong khi Hector và Belén chỉ đạo những người khác thám hiểm hòn đảo. Hector vừa nhét túi đựng nước mang theo vừa nói với tôi, “Lúc nào cũng ở gần mọi người nhé. Đừng đi đâu một mình. Nếu cảm thấy nguy hiểm, hãy sai người đưa cô về tàu. Chiều tối là tôi về.”
Tôi gật đầu, biết rằng mình sẽ làm ngược lại hoàn toàn, ước gì có thể hôn anh lần cuối, hoặc ít nhất cho anh biết cảm xúc của mình. Anh xứng đáng được biết.
“Hector, tôi…” Tôi không chắc mình cảm thấy thế nào. Thấy có lỗi, có lẽ. “Bảo trọng,” tôi nói cho hết câu.
“Cô cũng vậy.” Ánh mắt anh dừng lại ở môi tôi. Và rồi anh vội vàng bỏ đi, khoác túi lên vai.
Tôi cảm nhận thấy thân hình cao ngất nghểu của Bão đằng sau. Ông ta nói thầm, “Cho tôi đi cùng.”
Tôi quay phắt lại, lườm nguýt.
“Xin cô đấy.” Đây là lần đầu tiên trên gương mặt ông ta không có vẻ mỉa mai hay bảnh chọe. “Cô biết không, chính tôi cũng cảm nhận được. Tôi chắc chắn là không giống như cô. Nhưng tôi biết nó rất gần. Đến chiều tối là chúng ta sẽ tìm được nó.”
“Sao ông lại nghĩ ta…”
“Cô yêu người của mình rất nhiều, nữ hoàng bé nhỏ ạ,” ông ta nói. “Cô sẽ không muốn họ gặp hiểm nguy. Đây là cơ hội duy nhất để cô trốn đi. Anh ta luôn quan sát cô, như thể anh ta là người sắp chết khát trên sa mạc, còn cô là ảo ảnh ngoài tầm với.”
“Bão!” Tôi ghét nghe những lời ấy từ ông ta, vì nó khiến tình yêu của Hector dành cho tôi nghe thật rẻ tiền và nực cười.
“Hẳn rất khó cho cô. Phải làm điều cô dự tính, dù biết rằng có thể anh ta sẽ không đời nào tha thứ cho cô, một khi biết chuyện.”
Tôi vừa muốn bóp cổ ông ta vừa mừng vì ít nhất có một người tôi không cần lừa bịp. “Ông chưa từng yêu một ai sao, Bão? Ý ta là ngoài bản thân ông ra.”
Ông ta cúi đầu hình như tỏ vẻ tiếc nuối. “Có. Ồ, có chứ.”
Giọng ông ta làm tôi dịu giọng. “Vậy có lẽ ông có biết chuyện này khó khăn đến nhường nào.”
“Nghĩa là cô sẽ đưa tôi đi cùng?”
“Hector không tin ông.”
“Nhưng cô thì có.”
Tôi thở dài. Ông ta nói đúng. Và nếu ông ta có thể cảm nhận zafira, không gì có thể ngăn cản ông ta trốn đi mà không có tôi. “Ừ, ông có thể đi cùng.” Ít nhất, nếu có ai trong hai chúng tôi bị trặc tay trặc chân thì người kia có thể tìm người cứu. “Đừng mang hành lý,” tôi bảo. “Nhét càng nhiều đồ ăn vào túi quần túi áo càng tốt. Tôi sẽ gặp ông ngược trên dòng suối một đoạn. Đừng để ai trông thấy ông.”
Tôi có quyền đi lại trong lán trại như bất kỳ ai, dù có vẻ mọi con mắt đều đổ dồn vào tôi khi tôi về lều riêng. Tôi lấy túi đựng nước khỏi hành lý và đeo vào thắt lưng, mấy bao nhỏ đựng chà là và thịt khô thì nhét vào túi quần; còn con dao thì tôi nhét vào giày. Tôi cũng cầm vương miện lên. Dù gì nó cũng được nạm Thánh thạch. Có lẽ nó sẽ hữu dụng. Nhưng tôi chẳng biết giấu nó vào đâu. Thế là tôi đành nhét nó trở vào túi hành lý.
Tôi thấy mình như béo ra và lồ lộ khi đi men theo dòng suối.
Mara ngồi trên tảng đá bằng. Cô cầm một viên đá nhẵn màu xám ở một tay, và đang nghiền một cái rễ cây to màu nâu. Mùi ngọt hăng làm tôi cay mũi. Cô ngước lên và nói, “Gừng này! Chúng mọc ngang suối. Tôi định phơi khô rồi đem về nhà.”
“Đó sẽ là một món tuyệt vời bổ sung vào túi gia vị của cô,” tôi nói.
Không hiểu sao nghe giọng tôi, cô bỗng nghiêm nghị hẳn. “Có chuyện gì à?”
“Không,” tôi vội lấp liếm. “Nhưng dạo này tôi không mấy khi cầu nguyện, và tôi sẽ đi lên thượng nguồn tìm chỗ riêng tư một chút. Cũng gần khu trại thôi.”
“Tôi sẽ đi tìm cô khi đến giờ ăn trưa.”
“Đừng! Ý tôi là, tôi có thể sẽ ở đó lâu hơn. Tôi có nhiều chuyện trong đầu quá.” Nói thật, tôi là người nói dối dở nhất Joya d’Arena.
Nhưng cô chỉ nhún vai. “Nếu vậy, tôi sẽ để phần đồ ăn cho cô.”
“Cảm ơn cô.” Tôi ước mình có thể cúi xuống ôm cô, nhưng không dám gây ngờ vực khi chỉ cần tạm biệt qua loa. Tôi nghe tiếng lạo xạo từ viên đá nghiền của cô.
Tôi vừa khuất khỏi khu trại thì Bão rời khỏi rừng đến gặp tôi. Không nói không rằng, chúng tôi cùng nhau đi ngược dòng, và chúng tôi đi trong rừng chậm đến phát bực vì phải rón rén không cho ai biết. Dần dần, chúng tôi vượt qua cái hồ tôi và Mara cùng tắm hôm qua, địa hình trở nên mấp mô và dốc hơn tới khi chúng tôi phải trèo trên những khối đá phủ rêu xanh, sử dụng những cây dừa bám rễ sâu vào những khe sâu và vũng bùn làm đòn bẩy.
Zafira đang réo gọi tôi; tôi cảm thấy nó rõ ràng như dây thòng lọng buộc quanh eo, càng ngày càng siết chặt và đau đớn hơn theo mỗi bước chân. Tôi vừa đi vừa cầu nguyện, và cảm giác ấm áp an ủi lan khắp bụng giúp tôi vơi bớt đau đớn.
Dòng suối đổ ra một cái hồ nhỏ nằm dưới chân một ngọn núi. Một thác nước róc rách đổ xuống từ sườn núi vào hồ, một cầu vồng nhạt màu lóng lánh bọt trắng xóa. Tôi ngước lên cao, cao và cao nữa – nhưng đầu ngọn thác nước ẩn trong mây.
Tôi nhìn vách đá trước mặt, thất vọng vì không tìm thấy đường đi. Nhưng zafira vẫn lôi kéo tôi.
“Lại một thử thách nữa,” Bão nói.
“Ta từng leo vách núi rồi, nhưng đây thì không thể. Quá trơn và dốc. Quá cao.”
“Đừng ngốc thế,” ông ta nói.
Tôi mở miệng định mắng lại, nhưng thôi. Ông ta nói đúng. Tôi cần suy nghĩ theo một hướng khác.
Tôi hít một hơi sâu và tập trung vào lực kéo. Nó dẫn thẳng qua hồ, về vách núi. Chân vách núi lờ mờ sau màn sương. Nhưng có lẽ có một đường gờ ẩn sau màn sương bọt nước. Hoặc những tảng đá. Gì đó cho chúng tôi tận dụng để nhìn kỹ hơn.
“Chúng ta cần đi vòng qua hồ,” tôi nói. “Để sang bên kia.”
“Đúng,” ông ta nói, mắt nhìn ra xa. “Tôi cũng nghĩ thế.” Với tán lá rừng bao quanh, trông đôi mắt ông ta xanh hơn bao giờ hết, như mặt trời chiếu qua ngọc lam bảo. Tôi rùng mình khi quay người dẫn đường.
Những tảng đá lổn nhổn quanh hồ có màu đen sì, lỗ rỗ và sắc, khi tôi dùng tay để trèo, phần da mềm bị xước xát. Tôi thoáng thấy một chuyển động. Tôi nheo mắt nhìn làn nước trong vắt – nó sâu và in bóng núi, nhưng có gì đang bơi dưới đó, một thứ to lớn.
Tôi cúi sát hơn. Nó bơi vội đi và biến mất dưới một gờ đá ngầm. Sinh vật kia to hơn cá ngừ, nhưng tôi dám thề đã thấy mấy cái chân ngắn ngủn và cái đuôi dài đánh qua lại. Có lẽ là tôi tưởng tượng ra.
“Sao thế?” Bão hỏi.
“Nơi này rất lạ,” tôi vừa nói vừa đi tiếp. Nhưng tôi vẫn để ý kỹ rìa nước.
Màn sương từ thác nước phủ lên tóc, quần áo, da thịt tôi. Chúng tôi càng lại gần, sương chuyển thành bụi nước, rồi tia nước, và không khí mù mịt đến độ tôi chỉ nhìn được một quãng dài chừng vài sải tay. Tiếng nước chảy ào ào, làm gió mạnh bốc lên. Tôi cẩn thận đặt tay tì chân trên những tảng đá trơn, thăm dò từng bước chân, từng điểm bám tay, trước khi chuyển động tiếp.
Và cuối cùng chúng tôi không thể đi xa thêm. Chúng tôi đứng trên một gờ nhô ra giữa vách núi và cái hồ, thác nước ở sau lưng. Không còn chỗ bám víu nữa. Không còn đường leo trèo. Bão hét gì đó, nhưng bị tiếng thác dồn át mất.
Nghĩ đi, Elisa.
Tôi nhìn mặt vách đá, chớp mắt nhìn qua màn nước. Nó đen sì, ẩm ướt, trừ một vài mấu nhô ra mọc đầy rêu. Đám dương xỉ cứng đầu mọc chui ra từ những khe sâu, vươn lên đón nắng. Cây dây leo, bị đám dạ lan thảo ký sinh hút hết dưỡng chất, buông rủ xuống và phất phơ trong gió, la đà trên mặt hồ.
Dây leo. Tôi nheo mắt nhìn kỹ hơn. Một vùng tối khuất sau chúng – gì đó tối đen hơn đá ướt. Tôi gạt đám dây leo sang bên.
Đó là một hang động, hoặc một địa đạo, ẩn sau thác nước dẫn vào bóng tối như hũ nút. Lực kéo không nghi ngờ gì nữa muốn lôi chúng tôi vào trong đó.
Tôi lầm bầm mắng mình vì không mang theo hộp quẹt, nhưng nhận ra trong không khí ẩm ướt thế này, không gì có thể bắt lửa. Chúng tôi phải lần mò trong bóng tối và tin vào viên đá dẫn đường. Sau cùng thì đó cũng là một thử thách. Nó phải khó khăn.
Nhưng không, chúng tôi có nguồn sáng. Tôi cầm một đống dây leo và giật tung ra. Tôi quấn nó vài vòng quanh cẳng tay. Bão hiểu ngay và làm theo. Sau đó chúng tôi bước vào động.
Tiếng thác nước trở nên vang dội và ồn hơn rất, rất nhiều. Bước thêm vài bước và chúng tôi đã khuất sau màn nước trắng. Ánh nắng ban ngày gần như không lọt được vào, phủ lên thác nước một lớp bóng lóng lánh, và tôi bỗng nghĩ đến Hector, ước gì anh ở đây để cùng chiêm ngưỡng cảnh đẹp này.
Tôi nghiến răng và quay lưng với thác nước, bước vào địa đạo. Ánh sáng yếu dần. Địa đạo chỉ vừa đủ cho tôi đứng thẳng, nghĩa là Bão phải cúi lom khom. Nhưng dần dà, hoa dạ lan thảo bung nở và bắt đầu tỏa sáng, lúc đầu yếu ớt nhưng chẳng mấy chốc đã sáng bừng, tới khi chúng tôi có thể nhìn rõ được quang cảnh cách mình vài bước về mọi hướng.
Địa đạo rõ ràng không bình thường. Các vách tường quá hoàn hảo, quá bóng bẩy, nền quá phẳng phiu. Nó hơi dốc lên một chút và những dòng nước chảy qua chúng tôi để đổ ra hồ.
Con đường của chúng tôi cong về bên trái. Chúng tôi rẽ, và ánh sáng từ đám dây leo chiếu phải một chút gồ ghề trên vách. Tim tôi đập rộn vì nhận ra sự quen thuộc.
Địa y mọc trùm lên chỗ gồ, trải rộng thành những vòng màu vàng và nâu. Tôi đưa tay lên cạo chúng đi và phát hiện ra dòng chữ được khắc trên tường. Thánh ngữ. Một lối viết cổ. Cánh cổng dẫn đến sự sống rất nhỏ hẹp nên hiếm người tìm ra.
“Đúng rồi,” tôi nói với Bão, giọng vang vọng trong hang. “Dòng chữ này cũng xuất hiện trong địa đạo dẫn tới hang động của ông tại Wallows.”
“Đúng,” ông ta nói. “Những chương đoạn trong Thánh thư từ lâu đã có liên hệ với zafira. Tôi thường leo lên địa đạo và nhìn ngắm nó. Tôi sẽ ngồi đó hàng giờ, hy vọng Chúa tiết lộ cho mình biết một chút gì đó.”
Tôi nghiêm nghị nhìn ông ta. Ông ta chỉ thừa nhận đã leo lên đường hầm.
Ông ta nhìn lại, mắt mở lớn tỏ vẻ bâng khuâng, và tôi nhận ra, không thể giải thích được, phần chân của mái tóc nhuộm đen đang ánh vàng dưới ánh sáng dìu dịu. “Đúng, tôi biết đường hầm đó dẫn lên hầm mộ,” ông ta nói. “Nhưng không, tôi không phải kẻ muốn giết cô vào ngày hôm đó. Tôi thật sự là bề tôi trung thành của nữ hoàng.”
“Ông có biết kẻ đó là ai không?”
“Không.”
“Nhưng ông đã theo đuổi zafira từ lâu. Kể cả khi bị trục xuất, ông cũng nghĩ đến nó.”
“Đúng.”
Mảnh ghép đã được đặt vào đúng chỗ. “Ông muốn chuộc tội phải không, Bão? Ông hy vọng tìm ra zafira sẽ giúp ông được người dân của mình một lần nữa đón nhận? Được chào đón như một người hùng? Sẽ được xóa án tử?”
Ông ta quay mặt đi. “Tôi không biết nữa,” ông ta khẽ nói. “Có lẽ vậy.”
“Và ông sẽ phản bội ta vì cùng một mục đích đó? Nếu ông giao ra Thánh thạch sống duy nhất này, ông sẽ được chào đón như một người hùng?”
Ông ta đẩy tôi sang bên và đi tiếp. Nhưng giờ tôi đã hiểu ông ta chút ít, và biết ông ta tránh trả lời để không phải nói dối.
Lòng hoảng hốt – và có lẽ thêm chút an tâm vì cuối cùng cũng biết chắc chắn một điều – tôi vội đuổi theo.
Con đường chúng tôi đi mỗi lúc một dốc. Nền hang bằng phẳng nhường chỗ cho những bậc thang được đục đẽo hoàn hảo và các khúc ngoặt đột ngột. Đùi tôi đau nhức, tim đập nhanh, và hơi thở hổn hển khi chúng tôi leo lên cao không biết bao giờ mới dứt. Giờ không khí khô hơn, và những con vật vội tránh đường chúng tôi qua. Tôi nghĩ đó là cua. Hoặc bò cạp hang. Hoặc có lẽ là lũ chuột có bộ vuốt dài có thể cào kèn kẹt lên đá. Dù chúng là gì, chúng cũng biến mất trước khi ánh sáng của chúng tôi kịp chạm tới.
Dường như nhiều giờ, hoặc nhiều ngày đã trôi qua. Tôi thấy mình bước đúng với nhịp tim, đang đập rộn trong ngực và cổ tôi. Tôi thấy khó thở, và lực kéo của Thánh thạch như ngọn lửa thắp trong bụng tôi. Chắc chắn chúng tôi đã gần lên đỉnh cầu thang xoắn ốc này. Chắc chắn chúng tôi đang ở trên nóc nhà của thế giới.
Chúng tôi quặt một lần nữa và thấy ánh sáng le lói. Cùng nhau, chúng tôi vội chạy tới, chỉ muốn được thoát khỏi cái địa đạo này. Ánh sáng mạnh dần. Một góc ngoặt nữa, và ánh sáng chiếu thẳng vào mặt chúng tôi. Tôi chớp mắt và đưa tay che.
Hoa dạ lan thảo ngay lập tức khép nụ. Mắt tôi dần quen với ánh sáng, và tôi hạ tay xuống.
Chúng tôi nhìn qua một thung lũng, xanh tươi và hơi mấp mô, bao quanh là những đỉnh núi ẩn trong sương. Chắc chắn chúng chính là những ngọn núi tôi đã nhìn thấy từ trên tàu. Nhưng giờ tôi được chiêm ngưỡng chúng từ hướng khác, và từ điểm cao hơn nhiều.
Chính xác có năm đỉnh núi nhọn chọc lên trời – con số thần thánh chỉ sự hoàn mỹ. Một ngọn thấp và bằng hơn những ngọn khác, trông như ngón tay cái, và tôi giật mình nhận ra rằng nếu nhìn từ một góc độ nhất định, tôi có thể tưởng tượng rằng mình đang trông thấy bàn tay phải chân chính của Chúa, và những dòng suối chảy trong thung lũng chính là những đường chỉ tay.
Đây là phiên bản to lớn hơn, xanh tươi hơn của Bàn tay phải của Chúa do Lutián điêu khắc tại Brisadulce.
Bão siết tay giữ ngực áo, hơi thở hổn hển, nhưng tôi không nghĩ là vì mệt nhọc. Vẻ sửng sốt trên gương mặt ông ta quá rõ ràng; nó khiến những đường nét góc cạnh trở nên hoang dã hơn và gần như xinh đẹp.
“Giờ ông cảm nhận được nó rất rõ,” tôi nhận xét.
“À, đúng. Tôi thấy hơi đau. Chúng ta nên xuống thung lũng.”
Tôi buồn bực nheo mắt nhìn sườn dốc. Thế này thì khó mà an toàn đi xuống được. Có lẽ bằng cách sử dụng đám dây leo và dương xỉ mọc chìa ra trên sườn núi, chúng tôi có thể dần dần đi xuống.
“Đó,” Bão nói. “Có những bậc thang đẽo vào đá.”
Tôi nhìn theo hướng ông ta chỉ và quyết định gọi đó là “bậc thang” xem chừng quá hào phóng. Chúng giống những điểm bám tay, bị rêu phủ kín hơn. Sau khi tuốt sạch những bông dạ lan thảo úa khỏi cánh tay, tôi leo xuống, đặt chắc chân vào những hố lõm, và bám lấy đám cây cỏ cho chắc.
Ngón tay tôi đau nhói, và tôi rụt tay lại. Một giọt máu ứa ra từ ngón trỏ. Tôi dùng tay kia gạt đám lá dương xỉ ra xem bị cái gì chọc vào.
Một cây hoa hồng leo, còn chưa nở hoa. Cái nụ đỏ sậm nhú ra khỏi đầu búp xanh. Những chiếc gai mọc dày quanh thân, dài và cứng hơn gai hoa hồng bình thường.
Nước mắt tôi trào dâng, vì tôi có cảm giác Chúa vừa tặng cho mình một món quà.
Tôi không được một vị tu sĩ nào chỉ dẫn cầu nguyện, không có khám thờ nóng nhận máu, cũng chẳng có thầy dòng lau vết thương cho tôi bằng dầu phỉ. Nhưng tôi không thể nào kiềm chế được cảm giác giây phút này phải xảy ra, vậy nên tôi quyết định phải làm điều luôn làm khi được hoa hồng thánh châm: cầu nguyện và xin chúc phúc.
Hồi trước, tôi cầu xin lòng dũng cảm. Hoặc trí tuệ. Lần này tôi nhắm mắt và lầm bầm, “Cầu xin Chúa, hãy ban cho con sức mạnh.”
Tôi mở mắt, lật ngón tay lại, để giọt máu nhỏ xuống đất.
Gì đó rung động – là thế giới xung quanh hay lời cầu nguyện bên trong thì tôi không biết – và mặt đất nghiêng ngả. Không khí rung động như ảo ảnh trên sa mạc, và chỉ trong một tích tắc, tôi thấy những đường ánh sáng lấp lánh, mang màu xanh Thánh thạch và mảnh như sợi chỉ. Chúng chạy theo đủ hướng khắp các đỉnh núi, dọc thung lũng, hội tụ tại một điểm và bị hút vào lòng đất.
Tôi chớp mắt, và cảnh tượng biến mất, để lại tôi chết lặng, bối rối và hoảng hốt.
“Chuyện gì vừa xảy ra vậy?” Bão hỏi. “Cô vừa cho đất một chút máu của cô. Tôi cảm thấy nó vừa rung chuyển.”
“Ta không rõ. Ta vừa thấy một chuyện rất lạ. Những đường sức mạnh. Nhưng chúng biến mất rồi.”
Ông ta hồ nghi nhìn tôi. “Đi nào. Tôi sốt ruột rồi.”
Chẳng mấy chốc chúng tôi đã xuống thung lũng, thế cũng tốt vì chân tôi đã run lẩy bẩy vì mất sức. Ở đây không có một bóng dừa cọ nào, chỉ có bách xòe tán rộng, bạch đàn cao ngất và một loại cây tôi chưa từng trông thấy, có những chiếc lá bản rộng to tướng mà chỉ một chiếc lá thôi đã đủ che cả người tôi. Lũ chim bay qua lại giữa các cành cây; ánh nắng lấp lóa chiếu vào chúng và phản chiếu đi thành các mặt lăng trụ. Điều này kỳ lạ đến giật mình, khiến tôi phải nheo mắt quan sát.
Không, không phải chim. Chúng là côn trùng khổng lồ, to bằng chim ó biển, bụng trắng phủ lông tơ và cánh mỏng như vải the.
Nỗi lo âu dấy lên trong ngực tôi. Thung lũng này không bình thường. Nó xa lạ. Khác biệt.
Và có gì đó ở nó khiến chúng tôi phải im lặng. Chúng tôi lẳng lặng đi, như thể đang chờ đợi, hoặc sùng kính một điều gì đó. Những chồng đá trông như khám thờ đổ nát nằm rải rác khắp rừng, một vài cột cao bằng tôi, bị phủ đầy địa y xanh và bụi đất. Một cây bách cứng cỏi bám vào một bên, đám rễ mọc xiên tạo thành những kẽ hở trên đá.
Chúng tôi đi vòng theo một khúc ngoặt và tìm thấy một cột đá khác, nhưng cái này cao bằng một cái cây và hình vuông, có những lỗ trông như ô cửa sổ. Một khối kiến trúc hoang phế. Tôi bâng khuâng nhìn những cột đá khác. Tất cả đều là phế tích. Đây từng là một thành phố bằng đá, hình dạng giờ đã bị nắng gió, rễ cây và thời gian xóa nhòa phá hủy.
“Nơi này hẳn phải đã hàng trăm năm tuổi,” tôi thở ra một hơi.
“Vài nghìn năm,” Bão nói, và nỗi buồn trong giọng ông ta là thứ tôi chưa hề nghe thấy bao giờ.
Tôi nhìn ông ta chăm chú. “Không thể nào. Chúa mang con người đến thế giới này…”
“Đúng, đúng, Ngài cứu các người khỏi thế giới đang chết bằng bàn tay phải chân chính vào cách đây chưa đầy hai nghìn năm trước. Tôi nghe cô nói rồi.” Sự tức giận trong giọng ông ta là không hề che giấu. “Nữ hoàng nhỏ bé, cô không nhận ra sao? Người Invierno chúng tôi luôn luôn ở đây.”
Tôi trố mắt nhìn ông ta, dù tôi cũng ngờ ngợ ra ông ta nói đúng. Đằng sau ông ta, một con chim-côn-trùng bay qua các cành bạch đàn, đậu lên một tòa nhà đổ nát, và bắt đầu chải chuốt đôi cánh bảy sắc cầu vồng bằng cái chân đen mảnh.
“Các người đến, mang theo thứ ma thuật chúng tôi chưa từng chứng kiến,” ông ta nói tiếp. “Họ thay đổi chúng tôi, khiến chúng tôi yếu kém hơn xưa. Chuyện kể lại rằng chính họ cũng thay đổi, nhưng tôi không biết bằng cách nào hay vì sao. Họ sống khắp mảnh đất nay là Joya d’Arena, và vì họ mà chúng tôi phải bỏ chạy vào sống trên các rặng núi. Sau đó, họ thay đổi cả thế giới. Cô biết không, vương quốc của cô hồi xưa không phải là sa mạc đâu.”
Tôi lắc đầu, vì khó chịu chứ không phải vì không tin. Nếu điều ông ta nói là đúng, vậy tổ tiên của tôi là những kẻ đã xâm chiếm quyền lợi của người khác. Không, là quân trộm cướp mới đúng. Nhưng ai lại là trộm khi kẻ đó chỉ lấy những gì được Chúa trao cho chứ? Chúa cho chúng tôi thế giới này. Mọi tài liệu đều nói như vậy.
Người gia sư già của tôi từng nói rằng sa mạc rộng lớn của chúng tôi từng là một biển nội địa, trước khi một cơn đại hồng thủy bí ẩn khiến nước bị rút vào sâu trong lòng đất. Có lẽ điều Bão nói cũng phần nào đúng. Có lẽ chúng tôi đã tạo ra sa mạc. Nhưng bằng cách nào? “Ta không hiểu nổi,” tôi nói lớn. “Chúa sẽ không…”
Thánh thạch nảy lên, và lực kéo ở bụng tôi như một con dao xoáy vào bụng.
Bão thở dốc. “Tôi không thích bị đau.”
Tôi cúi gập người, một tay ôm bụng, nhưng vẫn bám vai Bão và đẩy ông ta đi tiếp. “Cứ… đi… tiếp… đi.” Tôi còn chẳng thể đặt chân này lên trước chân kia. Tất cả những gì tôi làm được là đổ xuống đất, cong người, đầu gối chạm ngực. Có lẽ đây chính là điều cha Nicandro muốn nói khi bảo quyết tâm của tôi sẽ bị thử thách.
Tôi rất quyết tâm.
Nhưng chỉ đi được vài bước là bụng tôi bỗng đau quặn, làm tôi khuỵu xuống, thở dốc. “Tôi sẽ bò nếu cần thiết. Tôi sẽ…”
“Càng lúc cô đang thấy tệ hơn, đúng không?” Bão nói, bực bội nhìn tôi.
Tôi gật đầu, vì không nói nổi lên lời.
Ông ta nhìn tôi một lúc. Sau đó, ông ta thở dài, ngồi xổm xuống, cầm một tay tôi, vòng qua vai mình. Ông ta đứng lên, kéo tôi đứng dậy. “Chỉ một chút nữa thôi, nữ hoàng.”
Tôi đè nén cảm giác ngạc nhiên, và tập trung di chuyển chân trong lúc ông ta lôi tôi đi trên đường.
Đúng lúc tôi tưởng mình không thể đau hơn nữa, cơ thể tôi run rẩy, vừa muốn nôn mửa vừa như sắp ngất, thì chúng tôi vào một trảng trống nhỏ. Ở giữa là một phế tích khác, tròn xoe như một tòa tháp. Nhưng đỉnh của nó đã sụp từ lâu, khiến nó chỉ cao bằng một người đàn ông.
Có tiếng xích xủng xoảng.
Một gương mặt tái xanh có đôi mắt màu trời ngày mù sương nhòm ra từ đằng sau tòa tháp. Những sợi tóc trắng đổ xuống từ giữa cái sọ cháy nắng, dài chấm đất. Đó là kẻ gác cổng.