T
uyết rơi cả một buổi tối.
Tấm chăn tuyết dày cộp lặng lẽ phủ kín cả thôn Cơ. Buổi tối vì thế mà rất ấm áp. Vì thế mà không hề giống một buổi tối sắp xảy ra việc gì đó chẳng lành.
Đã lâu lắm rồi Cách Lạp mới ngủ một giấc ngon đến vậy, không hề có chút linh cảm gì đối với tai họa sắp xảy ra. Thậm chí khi mặt trời đã lên cao, ánh nắng phản chiếu nền tuyết trắng chiếu sáng cả gian nhà, cậu vẫn ngủ một cách bình thản và ngon lành.
Tiếng kẻng ở trường tiểu học đã đánh thức Cách Lạp dậy.
Tiếng kẻng leng keng nghe thật giòn giã trong buổi sớm mai sau trận tuyết, buổi sáng ánh nắng rực rỡ, không khí trong lành, cánh đồng bao la lấp lánh ánh bạc dưới ánh mặt trời. Cách Lạp ngồi bật dậy.
Ánh sáng trong phòng sáng đến mức ngay cả ngọn lửa trong lò sưởi cũng trốn đâu mất, chỉ nghe thấy tiếng chúng run rẩy, nuốt chửng không khí. Bà con thôn Cơ gọi đó là tiếng cười của lửa. Lò sưởi cháy rừng rực, ngọn lửa phát ra âm thanh như tiếng cười như của giọng nam trầm, xưa nay đều là điềm lành. Cách Lạp vùng dậy chạy ra ngoài cửa, úp mặt vào tuyết trắng. Khi thấy mặt mình để lại vết bẩn trên tuyết, Cách Lạp bất giác bật cười. Cậu vốc tuyết, ra sức xoa lên mặt, cổ và tay. Lúc bốc lên là tuyết trắng tinh khôi, tuyết tan trên da cậu, biến thành nước bẩn nhỏ xuống đất.
Khi tiếng kẻng lại vang lên, Cách Lạp đứng thẳng lưng, mặt mày rạng rỡ. Lúc vui, Cách Lạp thường hay lắm lời. Cậu nói: “Lạ thật, trường đang nghỉ học, ai lại gõ kẻng thế.”
Nghe thấy tiếng kẻng, từng cái đầu nhô ra từ cửa sổ của những ngôi nhà xung quanh quảng trường, những cánh cửa đối diện cũng kẽo kẹt mở ra.
Mọi người trông thấy trung đội trưởng dân quân Sách Ba đang gõ kẻng.
Cách Lạp chẳng buồn nghĩ ngợi, miệng lại liến thắng: “Quái lạ, trung đội trưởng dân quân làm cả thầy giáo tiểu học.”
Sách Ba thấy bà con trong thôn bị quấy rầy, liền đi ra giữa quảng trường trong vòng vây của đám trẻ con choai choai trong thôn, miệng nói ra hơi trắng, tuyên bố một tin quan trọng với bà con: Hôm nay, ô tô sẽ về thôn ta. Sách Ba hô to: “Tin vui đây, công xã vừa gọi điện, hôm nay ô tô sẽ về thôn ta!”
Đám trẻ con hò reo, vây lấy trung đội trưởng dân quân chạy về phía cổng làng.
Đương nhiên, trong đám trẻ con đó không có Cách Lạp và thỏ con.
Những người còn lại cử chỉ chậm rãi hơn, nhưng chưa đến nửa tiếng đồng hồ, gần như toàn bộ người trong thôn đều đã tập trung ở cổng làng. Ở đó vốn là đàn tế thần, do ngáng giữa đường vào thôn nên đã bị san phẳng. Tuyết trắng tinh kêu lép xép dưới chân mọi người, bắt đầu tan dưới ánh mặt trời. Tuyết mênh mông quanh thôn vẫn trắng đến lóa mắt, lớp tuyết dày trên cây bị mặt trời chiếu rọi, rào một cái, rơi xuống đất. Con đường mới làm, uốn lượn theo lũng sông, lặng lẽ nằm dưới tấm chăn tuyết. Mọi người lặng lẽ đứng khoanh tay, tuyết chảy dưới chân đã ngấm ướt đế giày, nhưng vẫn không nhúc nhích.
Tuyết trên đường tan nhanh nhất, bóng dáng những con đường nhỏ đen thui trên sườn núi, trên cánh đồng bắt đầu hiện rõ từng đoạn. Con đường cái hiện nguyên hình cũng rất nhanh, nước suối bên cạnh đường cũng bị đục do nước băng tan chảy vào.
Mọi người đứng đó đến trưa mà vẫn không thấy bóng dáng ô tô đâu. Họ chậm rãi quay về thôn. Cách Lạp cũng chậm rãi đi về nhà. Trên đường, thỏ con buồn rầu hỏi: “Anh Cách Lạp ơi, ô tô sẽ không về nữa sao.”
“Không về thì thôi.” Trước mặt thỏ con, Cách Lạp luôn ra vẻ một gã đàn ông bất cần đời.
“Nhưng em lo ô tô không đến.” Thỏ con nói.
“Vì sao?”
Thỏ con nói: “Em không biết, nhưng em chỉ lo thôi.”
Cách Lạp cười khà khà như một người đàn ông: “Không đến thì thôi, em chờ đấy mà xem, đến rồi, với em, với anh, đều chẳng hay ho gì đâu.”
Thỏ con lặng thinh.
“Em tưởng ô tô sẽ chở kẹo mút miễn phí, tiền biếu không đến sao?”
Sau đó, hai anh em chia tay về nhà. Đây là lần cuối cùng Cách Lạp gặp thỏ con trước khi nó bị thương. Sự việc qua đã lâu, Cách Lạp thường xuyên nhớ lại cảnh hai anh em chia tay nhau, cậu không hề có linh cảm gì với sự việc nghiêm trọng xảy ra sau đó. Đến trưa, tuyết cũng tan gần hết, trong không khí toàn mùi hơi nước trong lành, ánh mặt trời cũng không còn chói mắt nữa. Thỏ con đi được vài bước lại quay lại dặn: “Nếu ô tô đến mà em không nghe thấy, anh phải đến gọi em đấy nhé.”
Cách Lạp làm ra vẻ thiếu kiên nhẫn, khua khua tay nói: “Mau về nhà đi, anh nhớ rồi.” Nói xong đi thẳng về nhà. Về đến nhà, cậu phát hiện mặt Tang Đan đỏ ửng, hai mắt long lanh, cơ thể mềm mại lộ vẻ mệt mỏi ngồi cạnh lò sưởi. Với Cách Lạp mà nói, hình ảnh này không hề lạ lẫm, lại có đàn ông vừa đến nhà chơi rồi. Cách Lạp chửi thầm, gắng không biểu hiện gì qua nét mặt. “Mẹ không cùng mọi người đi đợi ô tô đến sao?”
Tang Đan cười ỏn ẻn nói: “Mọi người chẳng phải không đợi hay sao?”
Cách Lạp thấy buồn nôn khi nghĩ đến tiếng cười nhõng nhẽo kia là dư âm tình ái dành cho người đàn ông kia còn rơi rớt lại, nhưng cậu chỉ lãnh đạm nói: “Con đói rồi.”
Giờ thì động tác của Tang Đan đã lanh lợi hơn, đứng vội dậy, biến ra một miếng thịt tươi ngon như trò ảo thuật, hát nghêu ngao, thái thịt thành miếng mỏng, rắc muối lên, cho lên bếp nướng. Cách Lạp ăn ngấu nghiến liền ba miếng, Tang Đan nhìn Cách Lạp xé từng miếng thịt, nhai nát, nuốt xuống, sự dịu dàng dành cho người đàn ông ấy giờ mới dần biến thành ánh mắt của người mẹ dành cho con trai. Đợi con ăn no xong, cô mới ăn. Ánh mắt Cách Lạp nhìn mẹ chứa đầy niềm thương xót, người mẹ cũng nhìn con trai mình với ánh mắt thương hại. Nó đại loại là một cảm giác giống như hạnh phúc vậy.
Cách Lạp nghe thấy mình cười thành tiếng.
Người mẹ dí sát trán mình vào trán con trai, cũng cười thành tiếng.
Tiếng cười của hai người đều êm tai, đều mang dư vị của niềm vui có được từ trong đau khổ.
Cách Lạp đột nhiên thấy mình rất muốn hỏi mẹ là người đàn ông nào đã mang thịt nai đến, nhưng cậu chỉ cười khì khì. Lúc đó, mẹ nói: “Con trai, còn muốn ăn thêm nhiều thịt nai không?”
“Sắp Tết rồi, con muốn chứ.”
“Thế thì chúng ta sẽ ăn một cái Tết rất nhiều thịt nai.”
Mẹ nói với cậu, có một người săn được một con nai, giấu ở trên núi phía sau thôn, trong một hốc cây Vân Sam gấu từng làm ổ, cạnh khối đá khổng lồ luôn bị ánh nắng hoàng hôn chiếu vào đỏ rực. Cách Lạp nghĩ, tiếp theo, chắc mẹ sẽ nói với cậu người đàn ông giấu thịt nai trong hốc cây đó là ai. Nhưng mẹ không nói nữa, mà dúi cho cậu một cái túi, một cuộn dây thừng và một con dao bầu. Cách Lạp ra khỏi nhà đi lên núi với nỗi thất vọng mơ hồ.
Cứ trèo lên được một đoạn thì cậu lại nghỉ chân, ngẩng đầu nhìn khối đá khổng lồ đỏ rực nổi bật giữa rừng cây. Cứ mỗi lần như vậy, những uẩn khúc trong lòng lại trỗi dậy: Người đàn ông đó là ai, là người như thế nào?
Cứ mỗi lần nảy ra ý nghĩ này, trong đầu cậu lại xuất hiện hình ảnh một người đàn ông. Nhưng rồi cậu lắc đầu, xóa đi ngay cái hình ảnh đó. Cậu lắc đầu như vậy là có hai ý: Thứ nhất, từ trước đến nay cậu không cho phép mình nghĩ đến vấn đề này, nhưng giờ lại toàn nghĩ đến nó, thành ra nó trở thành nỗi phiền não ngọt ngào của cậu; thứ hai, cậu không muốn những người đàn ông lướt qua trong đầu cậu là bố mình. Khi cậu ngước lên nhìn lần cuối thì khối đá màu đỏ khổng lồ đã ở trước mắt. Chỗ này thực ra là một bãi đất rộng ở lưng chừng núi, khối đá đứng sừng sững giữa đồng cỏ với rừng Vân Sam bao quanh. Người thôn Cơ chẳng ai biết cái khối đá này được hình thành do sự vận động của sông băng từ hàng vạn năm trước, cũng chẳng ai biết khối đá màu đỏ này là sông băng chuyển xuống từ đỉnh núi cao hơn. Khi sông băng biến thành nước lũ đổ xuống dưới núi, khối đá này mãi ở lại nơi này như một kẻ ngoại lai. Cách Lạp đương nhiên cũng không biết điều này. Chỉ khi cậu bước đến cạnh nó, cái vẻ sừng sững to lớn của khối nham thạch màu đỏ đập vào mắt thì cậu nghĩ đến người đàn ông cuối cùng.
Hắn là bố của thỏ con.
Cách Lạp suýt thì hét lên vì sợ hãi trước suy nghĩ này của mình.
Cậu lại lắc đầu, quẳng cái ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Trên đồng cỏ đầy vũng nước, Cách Lạp mỉm cười mãn nguyện với khuôn mặt mình trong vũng nước. Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu cũng có thể quẳng những suy nghĩ không hay và không nên ra khỏi đầu là bản lĩnh đặc biệt mà cuộc sống đã dạy cậu, cũng chính bản lĩnh này đã khiến cậu tiếp tục tồn tại một cách khá vui vẻ.
So với bản lĩnh này, khả năng kiếm được một gốc cây đặc biệt trong rừng sâu đúng là chẳng thấm vào đâu.
Trong hốc cây không phải là cả con nai, nhưng hai cái đùi đủ để cậu và mẹ ăn một cái Tết xôm rồi. Cho hai cái đùi vào túi, buộc chặt miệng, dùng dây thừng buộc lên lưng, lúc chuẩn bị xuống núi, hình ảnh Ân Ba lại hiện lên trong đầu cậu. Cách Lạp cười: “Cháu không tin, lúc đó chú ở trong chùa còn chưa hoàn tục mà, hơn nữa, chú là một trong số những người đàn ông không biết đi săn ở thôn ta.”
Nói rồi, Cách Lạp vác thịt nai xuống núi.
Với một thiếu niên mà nói, hai cái đùi nai quả thật quá nặng. Cậu ngồi nghỉ liên tục. Cậu cứ ngồi xuống, thoát được gánh nặng trên vai, thì hình ảnh Ân Ba lại len lỏi trong đầu cậu. Cách Lạp nói: “Chú ơi, không thể nào, chú đừng làm phiền tôi nữa. Cháu thừa nhận, cháu hơi muốn chú là bố cháu, nhưng chú cũng biết bố cháu sẽ không phải là chú.”
“Không, em thỏ ơi, anh quý em, nhưng em không phải là em ruột anh. Hơn nữa, mẹ em sẽ không thích đâu.”
“Ông Ân Ba, cám ơn ông, xin ông hãy đi cho, cầu xin ông đấy, xin ông đi cho, ông không phải bố cháu, cháu nói lại lần nữa, ông không phải bố cháu.”
Cứ mỗi lần ngồi nghỉ, Cách Lạp lại tranh cãi với chính mình. Nếu không phải cậu nhìn thấy thôn làng, nhìn thấy một vật thể cồng kềnh đang men theo con đường cái mới xây, vù vù di chuyển vào thôn thì không biết cuộc tranh cãi này sẽ có kết quả ra sao nữa.
Ô tô! Ô tô đến thật rồi.
Cách Lạp muốn chạy xuống núi, nhưng đồ vác trên lưng quá nặng, khiến cậu không thể bước nhanh hơn. Cậu lại ghé cái túi đang vác trên lưng vào bờ đất để nghỉ. Lúc này, bà con trong thôn đã nghe thấy tiếng ô tô, mọi người đổ cả ra cổng làng, từ trên cao nhìn xuống, bóng của mọi người đều biến thành dẹt. Những bóng người dẹt đó di chuyển rất nhanh, chạy về phía ô tô, rồi lại chạy theo ô tô. Ô tô đỗ ở quảng trường giữa thôn, mọi người vây quanh xuýt xoa. Trước khung cảnh này, một Cách Lạp bình tĩnh xuất hiện. Cậu mệt mỏi nhìn xuống chân núi, nghĩ, chắc chắn họ sẽ thấy rất lạ lẫm, rất xúc động, nhất định sẽ cho rằng, có ô tô rồi cuộc sống tương lai sẽ khác. Nhưng Cách Lạp tuy nhỏ tuổi lại hiểu biết hơn nhiều người lớn. Cậu đã thấy rất nhiều ô tô, cũng từng ngồi ô tô, nhưng đa phần là rớt lại đằng sau con thú sắt khổng lồ chạy như bay trên con đường lưu lạc của một kẻ vô gia cư, ngập trong mùi xăng dầu không rõ là thơm hay thối và khói bụi mù mịt.
Cách Lạp trông thấy làn khói xanh bốc lên phía trước đầu xe, rồi thứ âm thanh như tiếng súng vang lên. Cách Lạp biết, đó là tiếng pháo. Trong thế giới của người Hán, cứ có việc gì cần chúc mừng, mọi người đều sẽ đốt pháo bánh. Lần này thì người dân thôn Cơ được mở rộng tầm mắt rồi. Trong khu rừng sau lưng, rất nhiều chim chóc hoảng sợ bay cả lên. Cách Lạp lặng lẽ ngồi ở đó, không nhúc nhích, cho đến khi lễ chúc mừng trong thôn kết thúc. Ô tô lại lắc la lắc lư rời đi. Trên quảng trường, một số người đã giải tán, một số người vẫn nấn ná chưa về. Cách Lạp đứng dậy đi xuống núi. Lúc này, ánh mặt trời đã rời khỏi vùng đất thấp ở chân núi, bò lên núi từng chút một, gió trong rừng nổi lên rất đúng giờ, gió rừng gào thét từng chập truyền đến phương xa, rồi lại nổi lên từ trong rừng. Giờ quay lại nhìn khối đá đó, đã không còn cao lớn như trước nữa, nhưng màu đỏ rực ấy lại bị ánh tà dương nhuộm cho thẫm hơn.
Thôn làng không ánh nắng, tối tăm không có sinh khí, rải rác những chỗ khuất nắng còn sót lại những đống tuyết đọng loang lổ dơ bẩn, Cách Lạp thấy lòng lạnh lẽo.
Lúc Cách Lạp vào đến thôn thì màn đêm đã buông xuống.
Cả thôn làng bị bọc trong mùi thuốc pháo và giá rét sau trận tuyết. Người lớn đã về nhà, chỉ có đám trẻ con vẫn đang thích thú hò hét, chạy nhảy, đánh lẫn nhau. Thỉnh thoảng còn đốt vài quả pháo. Lúc Cách Lạp bước vội vào nhà, bọn chúng ném một quả pháo ngay phía trước người cậu, quả pháo xì xì như con rắn, nhả ra khói xanh quay tít, Cách Lạp vừa quay mặt đi thì quả pháo nổ ngay trước người cậu.
Tai Cách Lạp kêu o o vì tiếng pháo, đám trẻ vốn có thể là bạn cậu cười rộ lên, rồi ù té chạy mang theo sự phấn khích quái lạ của chúng.
Tối hôm đó Cách Lạp và mẹ xẻ thịt chiếc đùi nai, rắc muối lên, ướp thịt. Xương đã lọc thịt hầm trong nồi to, nồi canh xương bốc hơi nghi ngút, phát ra âm thanh như tiếng hát, mùi thơm lan tỏa khắp căn nhà thấp tè. Cách Lạp uống hai bát canh to, ngay cả giấc mơ cũng ấm áp và an lành. Nửa đêm Cách Lạp tỉnh dậy một lần, thấy ấm bụng, liền nghĩ ngày mai phải mời thỏ con uống canh này mới được.
Cách Lạp không hề biết thỏ con đã bị thương. Lần đầu tiên pháo xuất hiện ở thôn Cơ đã làm thỏ con bị thương. Đốt pháo chúc mừng thông xe xong, thứ để lại là một đống xác pháo, nhưng vẫn còn khá nhiều quả xịt, biến thành đồ chơi trong tay lũ trẻ. Một quả pháo không biết đứa nào ném, làm thỏ con bị thương.
Pháo từ trên trời rơi xuống, rơi vào trong cổ thỏ con, thỏ con sợ hết hồn, đứng im không nhúc nhích, cho đến khi quả pháo đó nổ tạo thành vết thương sâu hoắm trên cổ nó, khuôn mặt trắng bệch của thỏ con bị hun đen bởi thuốc pháo, nó vẫn lặng thinh, người lảo đảo, từ từ ngã ngồi xuống đất, dướn người lên, rồi nằm vật trên đất.
Sau này, bất kể mọi người miêu tả lại khung cảnh lúc đó như thế nào, có một điểm rất nhất quán, đó là từ đầu đến cuối thỏ con không kêu lên tiếng nào, pháo còn chưa nổ, nó đã sợ đến nỗi hồn siêu phách lạc rồi.
Cách Lạp uống no bụng canh thịt nai, có thể khi cậu đang chìm trong giấc mơ ấm áp hạnh phúc, thì thỏ con sợ đến ngất đi cũng vừa thu hồn phách đã bay đi lại.
Hồn phách vừa được thu về thì thỏ con thấy đau đớn.
Thỏ con trong cơn đau đớn nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp của mẹ, lúc này đã bị thù hận làm cho méo xệch. Cô nhìn thấy thỏ con tỉnh lại, rên rỉ, liền nói: “Con trai, nói cho mẹ biết, đứa nào làm con bị thương.”
Thỏ con lắc đầu, nhìn mẹ với ánh mắt van xin, thì thào nói: “Mẹ đừng hỏi con nữa, con không biết, con không nhìn thấy.”
“Không, con trai, con không thể như vậy, chắc chắn con đã nhìn thấy.”
Thỏ con quay mặt lại, nhìn bố với ánh mắt van xin: “Bố ơi, con không nhìn thấy thật.”
Ân Ba cũng nói: “Nếu trông thấy, nó chẳng phải đã tránh được rồi sao?”
Thỏ con thở dài, sắc mặt căng thẳng giãn ra. Nhưng nó lại nghe thấy mẹ nói với bố: “Tôi khẳng định là thằng con hoang đó.”
Ân Ba nói: “Tôi không bằng lòng mình nói xằng bậy về người khác như thế.”
Thỏ con nói: “Mẹ ơi, con xin mẹ, cả buổi chiều nay anh Cách Lạp không có nhà.”
Ân Ba nói: “Chúng ta đã có lỗi với người ta một lần rồi.” Lặc Nhĩ Kim Thố nói: “Tôi thấy hai bố con anh đều trúng tà rồi.”
Sự việc này xảy ra ngay bên lề giấc mơ ấm áp và an lành của Cách Lạp, nhưng cậu lại không hề nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề.
Hôm sau, ánh nắng chan hòa, Cách Lạp không thấy thỏ con. Ngày thứ ba, vẫn không thấy. Đây là ngày cuối cùng trước khi sang năm mới. Tuy ngày tháng trôi qua nặng nề và gian khổ, nhưng khi năm mới sắp đến, sẽ mang đến niềm hy vọng mong manh, cũng chính vì điểm này, càng khiến mọi người thấy phấn chấn hơn ngày thường. Đó chính là bầu không khí của cái gọi là năm mới. Huống hồ năm nay, đường sá kết nối thôn Cơ với bên ngoài đã thông rồi, những người lái ô tô trên con đường mới đến đây có lý do nhân đôi niềm phấn khởi. Cách Lạp cũng thấy phấn chấn, nhưng không phải vì ô tô mà là hai cái đùi nai, phía sau hai cái đùi nai đó đang ẩn chứa người đàn ông bí mật. Nhưng cậu vẫn thấy cảm giác hưng phấn này còn chưa trọn vẹn. Khi ánh nắng cuối cùng của năm nay sắp xuống núi, cậu mới vỗ trán nhớ ra, đã hai ngày cậu không nhìn thấy thỏ con mà chỉ thấy người nhà thỏ con.
Hỏi ra mọi người mới cho cậu biết, thỏ con bị thương rồi. Cả nhà đã đưa thằng bé lên thị trấn Loát Kinh Tự khám rồi.
Còn có người trêu chọc nói: “Mày không biết gì sao? Người ta nói là mày ném pháo làm nó bị thương.”
Cách Lạp cười, cậu đã quen với việc người thôn Cơ có việc gì cũng lôi cậu ra làm trò đùa rồi, nên không để bụng. Cậu còn bẻm mép nói: “Được thôi, ai nói tao đốt pháo, để tao cho nổ tung mồm nó ra.”
Sau khi Sách Ba nổi tiếng, em trai hắn là Trường Giang cũng nhập hội với đám trẻ con trong thôn A Ca, anh em nhà Uông Khâm, Tề Mễ mõm thỏ. Bố Trường Giang đặt tên cho nó là Đa Cát Trát Tây, nhưng khi Sách Ba dẫn nó đến trường tiểu học báo danh đã đặt cho nó cái tên mới: Trường Giang.
Người lớn giải tán, còn đám trẻ lớn hơn cậu một chút thì vây quanh lại, nham hiểm nói: “Chính mày đã ném pháo làm thỏ con bị thương.”
Sau khi bọn chúng chạy đi, Cách Lạp rùng mình, gió từ trên núi tuyết tràn xuống, thổi vào lưng cậu, ớn lạnh. Cách Lạp lắc đầu, cười, rồi tự nhủ, lúc bọn nó đốt pháo, mình lên núi lấy thịt, lặng lẽ không ai biết, mình làm sao có thể làm thỏ con bị thương được chứ? Dù vậy cũng không sao khiến cậu xua được cảm giác ớn lạnh trên lưng.
Hoàng hôn cuối cùng trước thềm năm mới, Cách Lạp đi ra cổng làng vốn là một cái đàn tế, giờ thì đã thành giao lộ rộng rãi, dõi mắt về phía con đường chạy ra ngoài núi, cho đến khi màn đêm buông xuống, cũng không thấy một bóng người xuất hiện đường.
Ngày đầu tiên của năm mới, cả thôn tập trung trên quảng trường uống rượu ca hát nhảy múa, Cách Lạp và Tang Đan khóa chặt cửa không ra khỏi nhà.
Sáng ngày thứ hai thức dậy, Tang Đan nướng bánh, uống canh thịt nai đậm đà. Cách Lạp ra ngoài khi toàn thân nóng bừng sau khi uống canh, lúc đó Mặt Trời đã lên rất cao rồi. Cậu vừa mở cửa ra, thằng Trường Giang em trai Sách Ba đã xồ đến trước mặt, vừa cười nhăn nhở vừa hét lên: “Chính mày làm thỏ con bị thương.”
Cách Lạp không kịp đề phòng, giật thót mình, nói như giải thích: “Không, không phải tao, tao đi vắng.”
Rất nhiều khuôn mặt vây lại, bốn phương tám hướng, cả trên lẫn dưới nhìn cậu: “Nói, mày đã đi đâu?”
“Tao, tao lên núi.”
“Tất cả mọi người trong thôn đều đợi xem ô tô, mày lại lên núi? Mày định lừa ai chứ!”
“Nói, mày lên núi làm gì?”
“Tao... liên quan gì đến bọn mày?”
Sau đó, lũ trẻ con la ó, giống như ong vỡ tổ rồi giải tán. Trong tay chúng cầm những chiếc súng trường, súng lục đẽo bằng gỗ, miệng kêu đoàng đoàng bắt chước tiếng súng nổ, học cảnh chiến đấu trong phim, đánh lén một nhóm địch không chịu nổi một đòn trong tưởng tượng. Có đứa bị vấp ngã nhưng lại làm ra vẻ bị trúng đạn, kêu lên đảng cộng sản vạn tuế, lồm ngồm bò dậy, gào thét xung phong liều chết.
Cách Lạp bất chợt cảm thấy rất rõ nỗi đau đớn, hơn nữa cũng biết rất rõ, đó không phải là nỗi đau của mình, bởi cậu đã quá quen với đau khổ, cậu cảm nhận được nỗi đau đớn của thỏ con. Cậu đòi Tang Đan lấy một miếng thịt nai muối to nhất.
Tang Đan nói: “Con muốn ăn nướng hay ăn luộc.”
Cách Lạp nói: “Con muốn đi thăm thỏ con. Bọn nó đốt pháo làm thỏ con bị thương rồi.”
“Ai làm thỏ con bị thương?”
“Pháo.”
Tang Đan cười khì khì: “Con gạt mẹ, chơi pháo vui thế, sẽ không làm ai bị thương đâu.”
Cách Lạp nói: “Con không muốn nói nữa, mẹ mau lấy thịt ra đi, con phải đi Loát Kinh Tự thăm thỏ con, pháo làm nó bị thương rồi. Nó nhát gan thế, chắc chắn là sợ chết khiếp rồi.”
Tang Đan lấy thịt ra. Cách Lạp cầm lấy định đi luôn. Tang Đan lại nói một câu không thể tin nổi: “Rửa sạch miếng thịt trước đã.”
Lúc nói câu này, nét mặt Tang Đan vô cùng tỉnh táo. Đó là nét mặt chưa từng có từ trước đến nay, khiến Cách Lạp không thể không ngoan ngoãn nghe lời. Cách Lạp rửa thịt xong, Tang Đan lại bảo cậu rửa sạch nồi. Cách La vẫn làm theo. Lúc rửa thịt, rửa nồi, ánh sáng còn sót lại trong khóe mắt Cách Lạp lưu lại trên khuôn mặt Tang Đan, cậu phát hiện, khuôn mặt cô vẫn giữ vẻ tỉnh táo ấy, nhìn cậu rửa nồi rửa thịt sạch sẽ.
Khi thịt đã luộc trong nồi, Tang Đan nói: “Mẹ biết con đang nghĩ gì.”
Cách Lạp đang nghĩ, tươi có nghĩa là sạch, có cần phải rửa vậy không, cả thôn Cơ chắc chẳng có ai làm việc này, nhà mình lại càng chưa làm thế bao giờ. Nhưng vì vẻ mặt nghiêm túc của Tang Đan, thôi thì, mẹ kiếp, làm một lần cái việc khiến người khác chế nhạo vậy. Cậu cố tình nói: “Mẹ làm sao mà biết được con đang nghĩ gì.”
“Mẹ nói cho con biết, bố và ông của thỏ con, người ta đều là người có văn hóa hay chữ nghĩa, việc gì cũng rất cầu kỳ”, Tang Đan nói, “bây giờ không coi trọng cái gì lại thành ra quy tắc, vì thế con không hiểu được đâu. Cho nên mẹ phải dạy con. Con phải nhớ, đối với những người cầu kỳ, con cũng nên cầu kỳ, để người ta biết rằng con vẫn hiểu quy tắc lễ nghĩa.”
Cách Lạp vừa ầm ừ trả lời cho qua, vừa nhìn trộm Tang Đan, nét mặt cô không những tỉnh táo mà còn rất nghiêm túc.
Một trận gió thổi mở tung cửa, ánh nắng chan hòa ùa vào nhà, Cách Lạp ngẩng đầu lên, nhìn thấy ông mặt trời từ trên cao rắc lên người cậu từng chùm nắng vàng óng. Ngày đầu tiên của năm mới, cậu nghĩ, năm nay có lẽ là một năm may mắn. Có lẽ Tang Đan đã tỉnh lại từ trong trạng thái mơ hồ, hay nói cách khác, cô đã tỉnh lại rồi.
Thịt đã luộc xong, mùi thơm của thịt, mùi thơm nức mũi của hoa tiêu và hồi hương lan tỏa khắp nhà.
Cách Lạp hy vọng mẹ nói tiếp, Tang Đan nói tiếp như cậu mong muốn: “Nếu cầu kỳ nữa, thì trong canh phải cho thêm cà ri của Ấn Độ hoặc gừng tươi. Thịt luộc xong phải để vào khay bạc, khay đặt lên bàn gỗ sơn màu vàng kim.”
Cách Lạp nín thở, có lẽ mẹ sắp nhớ lại hoặc nói ra bí mật xuất thân của mình.
Tang Đan thở dài, “Những quy tắc này giờ đã không còn nữa rồi, chúng ta đều đã thay đổi chẳng khác gì người rừng rồi.” Tang Đan lẩm bẩm, người rừng, người rừng, Cách Lạp xót xa nhận ra, ánh mắt mẹ lại mơ màng. Nhưng cô trở lại ngay trạng thái tỉnh táo, phấn chấn nói: “Con trai ngoan, thịt luộc xong rồi, mang thịt đến thăm người bạn tốt của con đi.”
Cô còn đứng dậy tiễn cậu ra cửa.