C
ách Lạp mang miếng thịt đi hơn 30 dặm đường, đến thị trấn Loát Kinh Tự.
Không cần hỏi thăm, cái mũi thính như khuyển của cậu chỉ cần ngửi mùi cũng tìm thấy bệnh viện. Đó là bản lĩnh cậu có được trong hơn một năm lang thang phiêu bạt. Cậu không biết chữ, không đọc được biển hiệu. Những thị trấn nhỏ bé này đều nằm trong sự bao bọc của làng quê, nhưng những con người ở đây lại rất ngạo mạn với những người nhà quê. Vì thế, thường thì cậu không hỏi thăm họ bất cứ việc gì. Bệnh viện là một trong những nơi ngửi mùi bằng mũi dễ nhất. Mùi cụ thể ở đó là mùi thuốc khử trùng. Mùi trừu tượng là mùi của chết chóc. Ngoài ra, nhà hàng và cây xăng ở thị trấn cũng có mùi cụ thể và trừu tượng như nhau.
Cách Lạp vào bệnh viện thì mới biết, đứa bé bị thương do pháo tối qua đến băng bó vết thương xong đã về rồi. Lúc Cách Lạp quay về thì trời cũng đã nhập nhoạng tối. Cậu thấy hơi đói bụng. Cậu lại tìm thấy quán ăn bằng cái mũi thính của mình. Cách bày trí của nhà hàng này giống hệt rất nhiều nhà hàng mà cậu từng đến. Mùi cụ thể là mùi nước gạo, còn mùi trừu tượng là mùi của sự mệt mỏi, chán chường sống hôm nay không biết đến ngày mai. Vài cái bàn bóng nhẫy dầu mỡ, cửa sổ bán vé, cửa sổ lấy thức ăn, một cái tủ để món nguội và bánh điểm tâm, trên cửa sổ kính đẩy ra kéo vào bóng nhẫy viết thực đơn và giá tiền. Một gã đàn ông đeo tạp dề màu xanh ngồi ngủ gật sau cửa kính. Cách Lạp gõ gõ cửa sổ, mỉm cười với người vừa sực tỉnh đó. Gã đẩy cửa sổ ra, ngáp một cái. Nhanh như cắt, Cách Lạp với tay chộp một cái lưỡi bò hầm, mắt gã lộ vẻ sửng sốt, nhưng trước khi còn chưa ngáp xong, miệng còn chưa ngậm lại thì gã chưa giơ tay ra được, giương mắt lên nhìn Cách Lạp chộp thêm hai cái bánh bao ngay trước mắt. Sau đó, Cách Lạp quay người chạy ra ngoài cửa, gần ra đến cửa còn va đổ một cái ghế. Đợi gã gào lên, cầm dao phay đuổi ra đến ngoài cửa, thì chỉ thấy màn đêm đã buông xuống những con phố vắng hoe trên thị trấn.
Khi đã chạy ra khỏi thị trấn, Cách Lạp đi chậm lại, nó cười ranh mãnh, bắt đầu tận hưởng chiến lợi phẩm. Cách Lạp này và Cách Lạp đang ngồi thừ ra ở thôn Cơ là hai con người hoàn toàn khác nhau. Cách Lạp rong ruổi trên đường và có kinh nghiệm lang thang phong phú đã trở về. Hay nói cách khác, Cách Lạp thấy nhàm chán khi ở thôn Cơ đã cảm nhận điều thích thú nhất của cuộc sống lang thang. Cậu đi thoăn thoắt trên con đường cái. Những ngôi sao trên trời nhảy ra khỏi màn trời, cậu nghe thấy bước chân mình lẹt xẹt. Con đường cứ vươn dài ra, như sắp đi vào thiên đường ánh sao dệt bằng đá quý. Nếu không vì thỏ con bị thương, miếng thịt này còn chưa phải lấy ra; nếu không phải vì hôm nay, Tang Đan xưa nay cứ mơ mơ màng màng đột nhiên tỉnh táo hiểu biết, bắt đầu giống một người mẹ dạy dỗ con trai thì Cách Lạp chắc chắn sẽ cứ đi mãi thế này, không quay về thôn Cơ nghèo khổ hẹp hòi, khiến linh hồn con người bị phủ bụi đó nữa.
Lúc về đến nơi, cả thôn Cơ đã chìm trong giấc ngủ. Nhìn cửa sổ đen ngòm nhà Ân Ba, Cách Lạp nghĩ, em thỏ con, mai anh sẽ mang thịt nai tươi đến thăm em. Người đàn ông săn nai, chắc chắn là bố anh đấy.
Về đến nhà, nhưng mãi mà cậu vẫn không ngủ được. Mới đầu năm, mọi thứ như dự báo trước có việc gì lớn sắp xảy ra. Người đàn ông giấu mình nhiều năm mang thịt nai đến, Tang Đan lóe lên hy vọng sẽ tỉnh táo lại. Trong giấc mơ, hình như cậu cũng đang suy nghĩ những việc này.
Mùng hai Tết, Cách Lạp ra khỏi nhà với niềm mong đợi tốt đẹp tràn trề đối với tương lai, với những tình cảm ấm áp dành cho thỏ con.
Nhưng, khi cậu xuyên qua quảng trường thôn Cơ đến sân nhà Ân Ba, cậu lại bất lực trước cánh cửa gỗ nặng nề đó. Cậu gõ hết lần này đến lần khác, nhưng người trên gác như là đã chết hết rồi vậy, không có chút động tĩnh nào. Cậu có linh cảm chẳng lành: Vết thương của thỏ con xấu đi, hay là, thỏ con đã chết. Như để gạt bỏ nỗi sợ hãi đột nhiên ập tới, cậu gọi ầm lên: “Thỏ con, mở cửa! Em thỏ ơi, mở cửa đi! Anh đến thăm em đây!”, “Chú Ân Ba ơi, mở cửa cho cháu! Cháu đến thăm em thỏ!”
Nhưng trên gác không một tiếng động. Cậu lại gọi cô Lặc Nhĩ Kim Thố, bà Ngạch Tịch Giang, còn học thỏ con gọi ông Cống Bố, nhưng trên gác vẫn im lặng một cách bất an. Thế nhưng người trong thôn lại nghe thấy tiếng cậu ban đầu là sốt ruột, sau là cầu khẩn bi thương, nhiều người xúm lại bên ngoài hàng rào. Đám người đó càng tập trung càng đông, lặng thinh, như đàn diều hâu chờ chia nhau xác người chết trên đài thiên táng.
Nhiều người xúm lại như vậy, không phải vì thông cảm và thương xót, mà cuộc sống của họ quá nhàm chán, quá thấp hèn, còn được tôi luyện để hy vọng tìm kiếm niềm an ủi trong nỗi đau thương của người khác. Tiếp theo là đám trẻ con xuất hiện: A Ca, anh em Uông Khâm, Tề Mễ mõm thỏ và Trường Giang em Sách Ba mới nhập bọn. Bọn chúng là đàn diều hâu dữ tợn hơn được bú mớm trong những năm tháng đặc biệt bởi thân phận được xác định lại cách đây hơn chục năm, cũng bởi cha anh chúng đã đổi đời làm mưa làm gió trong thôn. Cách Lạp cứ gọi to một tiếng thì bọn chúng đứng bên ngoài hàng rào lại nhại theo một câu.
Mở cửa!
Mở cửa! Mở cửa!
Mở cửa! Mở cửa! Mở cửa!
Mở cửa! Mở cửa! Mở cửa! Mở… cửa!
Cách Lạp cảm thấy tuyệt vọng, cứ tưởng rằng cánh cửa số phận sẽ mỉm cười với cậu trong năm mới này, nhưng thực ra nó chẳng khác gì cánh cửa trước mặt, vẫn đóng chặt, mặc cho cậu gào thét đến nổ cổ nó cũng không mở ra. Cậu ngả đầu vào cửa nhà Ân Ba. Cánh cửa bị ánh nắng chói chang chiếu vào, cảm giác ấm áp ấy vốn là món quà ông mặt trời ban tặng, nhưng lại như tỏa ra từ bên trong tấm gỗ vậy. Cánh cửa từng rộng mở với cậu giờ lại đóng chặt rồi. Cậu đã không còn sức để gọi nữa. Cho dù đằng sau tấm cửa đó là thần số phận, thì cậu cũng không thể gọi tiếp được nữa.
Nhưng cậu không thể dừng lại, đám người không chút cảm thông đứng ở đó, chỉ chờ cái giây phút cậu sức cùng lực kiệt mà thôi. Đó là nguyện vọng của chúng. Vì thế, cậu không thể dừng lại, cậu đã muốn ngã ra đất chết trước mặt đám người này, nhưng cậu vẫn tỳ đầu vào cửa, gần như chỉ lẩm bẩm: “Em thỏ ơi, mở cửa đi, anh đến thăm em đây, anh mang thịt nai đến cho em.”
“Chú Ân Ba, cháu biết, chắc chắn là bọn chúng nói với chú là cháu đốt pháo làm em thỏ bị thương, nhưng lúc đó cháu lên núi lấy thịt nai mà.”
“Bà Ngạch Tịch Giang ơi, lúc ô tô đến, cháu đang ở trên núi mà!”
Cách Lạp cứ lẩm bẩm một mình như vậy, A Ca, anh em Uông Khâm, Tề Mễ mõm thỏ, Trát Tây Đa Cát mà bây giờ gọi là Trường Giang, bọn chúng đang hò hét phía sau: “Nói to lên, mày nói gì bọn tao không nghe thấy!”
“Cầu xin hòa thượng Ân Ba tha thứ cho mày đi, mày làm con chú ấy bị thương.”
“Này, người ở trên gác có nghe thấy không, người làm đứa con trai ngoan của mấy người bị thương đến nhận tội rồi này!”
Cách Lạp biết, nỗi uất hận khiến tim cậu sắp vỡ tung, nếu lúc này cậu có cái thứ đầy sức mạnh đó, có thể cậu sẽ cho nổ tung hết đám người này, nếu cậu có sức mạnh đó, nếu có phải cho nổ tung lần nữa những đứa đã chết thì cậu cũng sẽ không nương tay. Nhưng cậu lại không có thứ vũ khí sức mạnh vô địch đó.
Bây giờ cậu là một chú cừu đối diện với bầy sói.
Vẫn là Tang Đan cứu cậu thoát khỏi đám người đó. Tang Đan ôm chặt đầu cậu vào lòng, nói: “Nào, mình về nhà thôi, về nhà thôi.”
Cậu không dám nhìn mặt mẹ.
Đối diện với mẹ, cậu thấy nhục nhã, hổ thẹn. Đối diện với đám người lạnh lùng này, cậu thấy nhục nhã hơn, không dám ngẩng đầu lên, mặc cho Tang Đan ôm cậu về nhà. Cậu chỉ lẩm bẩm: “Mẹ ơi, mẹ biết con lên núi vác thịt nai về, con không có pháo, con không làm thỏ con bị thương.”
Tang Đan nói: “Im ngay, ở đây nhiều người thế này.” Cho đến khi thoát khỏi đám đông, Tang Đan nói: “Mẹ biết, mẹ biết chứ, mẹ hiểu ý con mà.” Sau đó, nước mắt mẹ trào ra, từng giọt nước mắt to tròn lăn xuống, rơi trên đầu cậu. Cách Lạp ngửa mặt lên, Tang Đan vẫn đang nói gì đó, môi cô run rẩy, mấp máy nhưng lại không ra tiếng. Giọng cô giống như mọi khi lạc đi vì sợ hãi.
Tim Cách Lạp đau đớn như bị ai giằng xé: “Mẹ ơi, mẹ, mẹ đừng giận, đừng sợ nhé!”
Môi Tang Đan vẫn mấp máy, ánh mắt vừa lộ ra chút tỉnh táo có thần thái lại trở nên trống rỗng, mông lung.
Đã về đến nhà, nhưng Tang Đan vẫn nắm chặt tay cậu, cứ như thể không làm thế cậu sẽ vĩnh viễn biến mất vậy.
Ban đầu, Cách Lạp còn giãy giụa, vì cậu muốn quay lại hiện trường, cậu muốn giết một hai đứa, thậm chí nhiều hơn lũ ác ôn, cái bọn chụp tội danh dối trá đó lên đầu cậu. Thực ra trong thâm tâm Cách Lạp biết, đối diện với đám đông lớn mạnh còn có chính quyền chống lưng kia, mình không có khả năng đó.
Cậu nghĩ, thế thì để mình chết quách đi cho xong. Nhưng mẹ lại nắm chặt cậu như vậy, toàn thân cậu cũng từ từ giãn ra. Từ hôm qua đến hôm nay, xảy ra quá nhiều chuyện, cậu đã thấy quá mệt. Toàn thân cậu mềm nhũn, không còn sức động chân động tay nữa. Cậu nằm lên người mẹ, thiếp đi.
Vừa chợp mắt, giấc mơ quái ác xuất hiện. Cậu ngủ chập chờn, thiếp đi vì quá mệt. Nhưng thần kinh căng thẳng của cậu lại không nghỉ. Vì thế, cậu thậm chí thấy mình vẫn còn thức. Cậu thậm chí đang nghĩ, khung cảnh đang mơ thấy rút cục là mơ hay là sự việc đang diễn ra. Cậu nhìn thấy Cách Lạp mệt mỏi rã rời sau khi trải qua một chuỗi sự việc đang nằm vật trên đất, còn Cách Lạp ý thức tỉnh táo đứng dậy, nhẹ nhàng đẩy tấm cửa gỗ nặng nề ra. Ân Ba nét mặt nghiêm nghị đứng ở cửa cầu thang. Ánh mắt hắn đau đớn, lòng trắng đỏ ngầu. Vừa nhìn thấy cậu, cơn thịnh nộ bốc lên trong đôi mắt bị xuất huyết của hắn. Hắn giơ tay ra, trong nháy mắt đã nhấc bổng Cách Lạp lên. Hắn nói: “Mày đã hại con trai tao.”
Cách Lạp lắp bắp không thành tiếng.
Ân Ba lại trợn đôi mắt đỏ ngầu lên: “Vì sao mày lại hãm hại thỏ con nhà tao.”
Cách Lạp vẫn không thốt ra lời.
Ân Ba lại nói: “Cả nhà tao tốt với mày như thế, cuối cùng mày vẫn hại thỏ con của tao.”
Cách Lạp tỉnh lại trong giằng xé, nhưng cơ thể mệt lử lại đưa cậu trở lại giấc ngủ, trở lại giấc mơ khiến người ta bị ức chế. Trong mơ, những lời dối trá đó bao vây cậu. Cả nhà Ân Ba đều tỏ vẻ có ơn với cậu, còn cậu lại phụ ân tình của họ. Họ hoặc là gặng hỏi, hoặc là không nói gì, chỉ ném về phía cậu cái nhìn ai oán, phẫn nộ. Chẳng cần hỏi có phải cậu ném pháo hay không, chỉ cái kiểu gặng hỏi và thái độ ấy cũng đủ để Cách Lạp có cảm giác như mình đã phạm tội tày trời rồi.
Không gì dễ dàng hơn khi bắt một người vốn sinh ra đã bị coi là tiện dân nảy sinh cảm giác tội lỗi.
Kết quả là, ngay cả trong giấc ngủ cậu cũng không được nghỉ ngơi. Cứ như vậy hai ngày liền, Cách Lạp đã đổ bệnh. Người cậu co quắp lại, không phân biệt được là thức hay ngủ. Lúc cậu tỉnh táo một chút, Tang Đan bón cho cậu nước canh thịt, nhưng lại khiến cậu nôn hết những thứ trong bụng ra.
Cậu sốt cao, trán nóng như thỏi sắt nung.
Lúc cậu lại rơi vào giấc mơ đáng sợ đó, lại có thể phát ra tiếng. Trong lúc sốt cao cậu liên tục nói mê. Lúc thì van xin, lúc thì cực lực tranh cãi, lúc thì tức giận chửi rủa. Chỉ có duy nhất một chủ đề, đó là lúc mọi người đốt pháo, cậu không ở hiện trường. Cho dù có đi chăng nữa, cũng sẽ không đốt pháo, vì cậu cho rằng việc ô tô đến chẳng có gì phải chúc mừng. Hơn nữa, cho dù có đốt pháo, thì người duy nhất cậu sẽ không làm tổn thương là em thỏ. Cậu liên tục mấp máy đôi môi đã rộp lên, mụn rộp vỡ ra rồi đóng vảy, cậu lại nói, vảy bị bong ra, rỉ máu.
Lúc đầu, Tang Đan ôm chặt lấy cậu. Cho đến khi cậu không còn sức để nói nữa, nằm im đó, mặt mũi nhợt nhạt, thỉnh thoảng, trong đôi mắt trống rỗng ấy lóe lên một chút ánh sáng, cũng có nghĩa là trong thâm tâm cậu vẫn đang tranh cãi.
Tang Đan sợ, tránh xa con trai, co rúm người lại ở một góc tường. Nghe con thở khò khè mà lòng đau như cắt.
Quá nửa ngày qua đi, không nghe thấy hơi thở khò khè, đôi mắt nhắm nghiền.
Tang Đan lặng lẽ lắng nghe, nhưng không nghe thấy tiếng con trai thở nữa. Cô chỉ nghe thấy ngoài cửa tiếng mọi người đang đi lại, cười nói, hát hò, nô đùa. Cách Lạp vẫn nằm im như người đã chết.
Cách Lạp vẫn nằm bất động, lặng thinh. Thậm chí vết bẩn trên mặt cũng không sao che được cái vẻ xanh xao nhợt nhạt.
Tang Đan đột nhiên nhảy dựng lên như phải bỏng, đầu tóc bù xù xông ra ngoài cửa. Bà con thôn Cơ năm mới không phải làm việc cho đội sản xuất, đa phần đều rảnh rỗi tập trung trên quảng trường, lười nhác hoặc ngồi hoặc đứng tận hưởng ánh nắng mùa đông. Sau này rất nhiều người vẫn còn nhớ, Tang Đan xông vào giữa bọn họ, ánh mắt dữ tợn. Cô giống một con sói cái tuyệt vọng lao ra từ khu rừng hoang, tiếng gào thảm thiết ai oán xé toạc cả bầu trời.
Rất nhiều người tập trung trước cửa nhà cậu. Cách Lạp nằm trên sàn nhà, nghe thấy nhiều âm thanh, cậu từ từ mở mắt ra, nhìn thấy nhiều bà con thôn Cơ xúm lại, Cách Lạp nghĩ, có lẽ sẽ có người động lòng từ bi, đưa cậu đến bệnh viện ở Loát Kinh Tự. Uống thuốc, tiêm, cấp cứu, thậm chí không cần đến những thứ này, chỉ cần cho cậu ngửi thấy mùi thuốc ở bệnh viện, biết đâu bệnh của cậu sẽ thuyên giảm, thế là ánh mắt ảm đạm của cậu loé lên tia sáng hy vọng. Nhưng không có một ai bước vào, mà chỉ thò đầu vào cửa, cửa sổ, nhìn một cái, thở dài như muốn nói bụng thì thương mà không giúp gì được, rồi rụt đầu lại.
Hay là nói: “Ôi, xem ra nó ốm không nhẹ đâu.” “Hừ, tôi thấy nó sắp chết rồi.”
“Cũng tốt, chết là hết.”
“Thì thế, thằng bé này, đáng lẽ không nên đến cái thế giới này.”
“Người đàn bà tội nghiệp, không nên đưa thằng nhỏ đến thế giới này.”
Cách Lạp nhắm mắt lại một cách tuyệt vọng. Họ nói đúng, cậu không muốn nhìn thấy bất cứ thứ gì trên thế giới này nữa. Cậu nhắm mắt lại, chặn đứng ánh sáng bên ngoài chiếu vào. Nhưng tim cậu vẫn đang đập, não cậu vẫn có ánh sáng của ý thức, ánh sáng này cậu không thể cắt đứt, chỉ có thể xem ý nguyện của ông trời mà thôi.
Cậu cũng không thể bịt tai mình lại, vì thế cậu nghe thấy Tang Đan đang van xin nài nỉ: “Xin hãy cứu con trai tôi.”
“Xin mọi người hãy rủ lòng từ bi, nói với nó, không phải nó làm thỏ con bị thương.”
“Chỉ cần mọi người nói không phải nó làm, nó sẽ khỏi thôi. Số phận hai mẹ con tôi đều hèn mọn như nhau, chỉ cần mọi người nói với nó, việc đó không phải nó làm, nó sẽ khỏi mà không cần uống thuốc.”
Nhưng không một ai đáp lại lời cô, mọi người vẫn giữ thái độ im lặng kẻ cả thường ngày.
Tang Đan đổi giọng.
“Trong số các người ở đây biết rất rõ, bàn tay dơ bẩn nào đã ném quả pháo vào cổ thỏ con, tao thề với trời, ngày nào cũng nguyền rủa bàn tay đó sẽ chết khô như cành cây, sẽ thối rữa như miếng thịt ôi.”
“Tao sẽ nguyền rủa các người...”
Lời nguyền của cô đã tống khứ đám người nội tâm yếu đuối đó đi.
Đó là ngày thứ tư của năm mới.
Tang Đan bình thường tứ cố vô thân, ruột để ngoài da hôm nay đã biến thành con sói cái hung dữ, cô đầu bù tóc rối xông vào sân nhà Ân Ba. Khóc lóc chửi rủa ầm ĩm, nhưng trên gác vẫn lặng như tờ, như thể chỉ trong một đêm cả nhà này đều bị điếc hết cả. Màn đêm ngày thứ tư của năm mới buông xuống trong tiếng khóc lóc chửi rủa ngày một khản đặc của Tang Đan. Tối hôm đó, cả thôn Cơ tĩnh lặng như đã chết vậy.
Nghe nói, bên lò sưởi, từng đứa trẻ trong thôn đều bị tra hỏi, nhưng kiểu hỏi này rất thú vị. Chẳng ai hỏi có phải con nhà mình đã ném quả pháo đó hay không, mà nói, xem ra, thằng Cách Lạp tội nghiệp có thể bị oan thật, “vậy thì, con có trông thấy đứa nào đã ném quả pháo đó không?”
Những đứa trẻ lớn lên trong những năm tháng đấu tranh đã liên kết vững chắc. Tra hỏi như vậy không thể cậy miệng chúng được. Trong lòng người lớn thấy hơi bất an, vì họ đã tìm cách chứng thực, nhưng rồi lại tiêu tan.
Cũng nghe nói, lúc trời tối, trên gác nhà Ân Ba có người xuống.
Có người nói: “Lạt-ma Cống Bố thôn Giang đã xuống, nói với Tang Đan, nhà họ không hề nói Cách Lạp làm thỏ con bị thương. Nhưng bà con trong thôn đều nói thế, nhất là lũ trẻ con đều nói thế, họ không thể không tin, cũng không tin hoàn toàn. Chỉ là sau này, nhà họ không muốn hai đứa chơi với nhau nữa, số hai đứa trẻ tội nghiệp này xung khắc nhau.”
Trong thôn còn truyền tai nhau, Lạt-ma Cống Bố còn lén cho Tang Đan một viên thuốc quý, hơn nữa còn là viên trước đây đức Phật đích thân gia trì.
Chính viên thuốc đó đã cứu sống Cách Lạp.
Đồn thổi mà, có người tung tin thì có người hoài nghi, người hoài nghi lại nặn ra một lời đồn mới, họ nói, hôm đó đi xuống gác không phải là Lạt-ma Cống Bố thôn Giang mà là Ân Ba. Hơn nữa, là thỏ con giục Ân Ba xuống. Hồn phách của đứa trẻ hiền lành này đã quay về nhập vào thân thể. Thỏ con nói: “Pháo không phải do anh Cách Lạp ném đâu.”
Lặc Nhĩ Kim Thố nói: “Thế con nhìn thấy đứa nào ném?”
“Con không nhìn thấy.”
“Con không nhìn thấy sao lại khẳng định là không phải nó ném.”
Thỏ con khóc: “Mẹ ơi, con xin mẹ đừng nói như vậy nữa, con sợ lắm.”
Lặc Nhĩ Kim Thố nhìn bố đứa trẻ: “Mình nghe thấy chưa, con nó sợ, thời buổi này, người sợ sệt, người giả nhân giả nghĩa đều không sống nổi.” Lúc nói câu này, nét mặt người đàn bà xinh đẹp ấy nghiêm lại, giống nữ thần tuyên bố chân lý.
Thời khắc đó, trong lòng Ân Ba thấy sợ người đàn bà này. Bởi vì chân lý mà cô tuyên bố không phải chân lý nhà Phật, cũng không phải chân lý một người hướng thiện nên tin. Mà chân lý này lại đang rất thịnh hành.
Thỏ con dướn người dậy, nói: “Con thề, nếu anh Cách Lạp ném quả pháo đó thật, thì không phải con mà anh ấy sẽ chết.”
Lời thề độc của đứa trẻ khiến người lớn sửng sốt. Nghe nói, thỏ con hồn phách vừa quay lại đứng dậy, chìa tay về phía bố, nói: “Bố đi với con.”
Người bố liền nghe theo đứng dậy.
“Bố xuống nhà với con, con muốn nói vài câu với mẹ anh Cách Lạp.”
Ân Ba dắt tay thỏ con xuống gác.
Nghe nói, cổ thỏ con vẫn cuốn miếng gạc trắng băng ở bệnh viện, tựa vào cửa, mỉm cười yếu ớt với Tang Đan.
Tang Đan quỳ sụp xuống trước mặt thỏ con, nói: “Cháu không sao là tốt rồi.”
Thỏ con nói: “Mẹ anh Cách Lạp, cô về đi, cô nói với anh Cách Lạp, cháu biết anh ấy không phải người làm cháu chảy máu, anh Cách Lạp cũng biết cháu không tin là anh ấy làm.”
“Nhưng con trai cô sắp chết rồi.”
“Không đâu, cháu đã thề rồi, anh Cách Lạp sẽ không chết đâu. Vì anh không phải người làm cháu bị thương, đợi khi nào cháu khỏi, bọn cháu vẫn chơi với nhau. Cháu yêu anh Cách Lạp.”
Nghe vậy, Tang Đan cảm động nước mắt giàn giụa, ôm đầu thỏ con hôn tới tấp, cho đến khi thỏ con nói: “Mẹ anh Cách Lạp, cô về đi.”
Ân Ba cũng nói: “Không phải người lớn chúng tôi nhẫn tâm, mọi người đều nói vậy, chúng tôi không thể không tin! Cháu nó đã nói vậy rồi, cô yên tâm về đi.”
Tang Đan bò dậy, quay về chuyển lời cho con trai. Nghe đồn, sau khi Tang Đan nói những lời này với Cách Lạp, Cách Lạp thở dài, yên tâm ngủ thiếp đi, sốt cũng hạ dần.
Cũng có người kể lại, thôn Cơ năm đó ăn Tết khá xôm. Trước đây ăn Tết có hội xuân, có múa hát truyền thống, nhưng đó đều là những thứ của xã hội cũ, trong xã hội mới, bên trên nói rồi, những thứ này cần phải biến mất cùng xã hội cũ. Thế là những thứ này biến mất thật. Năm mới của xã hội mới cũng biến thành năm mới của vật chất, ô tô trước Tết chở đến chia cho mỗi người nửa cút rượu trắng, một cân lạc và mỗi người 50 chiếc kẹo que. Đây là toàn bộ những thứ ngon nhất người thôn Cơ được hưởng trong năm mới của vật chất. Đương nhiên, còn có những lời đồn thổi do thỏ con không biết ai đã làm mình bị thương, và cả những lời kể khác nhau từ những tin đồn nhảm này. Không khí ở thôn Cơ xem ra vẫn khá nặng nề, nhưng trong thâm tâm mọi người lại thấy phấn chấn bởi những lời kể này.
Mùng Bảy Tết, Cách Lạp vừa hồi phục sau cơn bạo bệnh vịn tường dò dẫm ra ngoài cửa, yếu ớt dựa tường ngồi xuống tấm đệm da cừu, mí mắt cậu sụp xuống, một số người cố tình đi đi lại lại trước mặt cậu, cậu không còn đủ sức để mở mắt ra nữa.
Cũng trong ngày hôm đó, lại đẻ ra một câu chuyện mới. Nói bệnh của Cách Lạp thuyên giảm không phải vì cả nhà Ân Ba tha thứ cho cậu, cũng chẳng phải vì thỏ con đã thề độc. Mà là vào nửa đêm, một người đàn ông thần bí đã lẻn vào căn nhà nhỏ đó. Người đàn ông đó mang đến một miếng thuốc phiện đã biến mất nhiều năm. Hòa thuốc phiện với nước, cho Cách Lạp uống một chút, cậu tĩnh tâm lại, sốt cao cũng hạ dần. Đây là cách bà con thôn Cơ thường dùng để chữa những bệnh thường gặp. Cách này đúng là hiệu quả.
Người đàn ông này chắc chắn là bố đẻ của Cách Lạp rồi còn gì nữa.
Nhưng người đàn ông đó là ai? Mọi người đều hỏi như vậy.
Câu chuyện này quả thật rất hấp dẫn, sự hiếu kỳ của mọi người lại được đẩy thêm lên. Nhưng đáp án lại khiến người ta không hài lòng. Nghe nói, ngay cả Tang Đan cũng không biết người đàn ông đó là ai. Mọi người nói, có quá nhiều đàn ông ngủ trên giường của Tang Đan, cô lại là một người ngớ ngẩn như thế, làm sao biết rõ ai với ai. Quan trọng hơn là, những người đàn ông đó rời khỏi lúc đèn đã tắt, Tang Đan cũng không thể nhìn rõ mặt họ.
Qua mùng Bảy Tết, mọi người phải ra đồng lao động. Mùa đông vốn không có việc gì làm, nhưng bên trên bảo chặt khu rừng trên dốc phía nam sau thôn, khai hoang làm đất canh tác. Thế là mùa đông mọi người vẫn có việc để làm. Đàn ông đốn hạ từng gốc cây, đàn bà xếp cây thành đống, chất lên đống lửa cháy rừng rực. Sau khi vào xuân, băng tan, cày một lượt trên nền đất cháy xém, đất rừng trước đây giờ có thể trồng hoa màu rồi. Đám trẻ con nghịch ngợm trong thôn: A Ca, anh em Uông Khâm, Tề Mễ mõm thỏ và Trát Tây Đa Cát bây giờ gọi là Trường Giang nhặt được rất nhiều tổ chim to hơn quả bóng rổ giữa đống cây cối bị chặt. Bọn chúng úp tổ chim lên đầu, làm đủ các trò mặt quỷ, hò hét om xòm.
Thôn Cơ đã yên tĩnh trở lại.
Tiếng rìu đốn chặt cây vọng lại từ trên sườn núi sau thôn. Trong thôn không còn tiếng gì khác ngoài tiếng cây cổ thụ ngàn năm ầm ầm đổ xuống. Ông mặt trời tỏa nắng, mang lại chút ấm áp mong manh cho những ngày mùa đông.
Cách Lạp có thể tưởng tượng ra khung cảnh những gốc cây cổ thụ đổ xuống. Lưỡi rìu sắc lẹm chặt từng nhát vào gốc cây, từng mảnh mạt gỗ tươi vẫn còn thơm mùi nhựa bắn tung tóe khắp nơi. Vết rìu bổ trên thân cây ngày càng sâu, chút gỗ còn sót lại không đỡ nổi cả thân cây to nặng nề, sau đó là tiếng xé toạc giống tiếng người rên rỉ lúc đau khổ, thân cây bắt đầu nghiêng ngả, tán cây bắt đầu xoay tròn, ầm một cái, rất nhiều cành cây và lá kim bị đứt gãy, cả rêu xanh trên đất cũng bắn lên tung tóe, cây cổ thụ hơn ngàn năm tuổi bị đốn hạ nằm trên đất, sẽ không còn được đứng giữa rừng núi hoang vu hô mưa gọi gió nữa.