• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Núi vắng
  3. Trang 23

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 39
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 39
  • Sau

3

Đ

ó là năm 1967. Đứa con hoang Cách Lạp qua đời cũng đã được vài năm.

Nhắc đến cậu thiếu niên sau khi chết đi thân xác không còn nhưng hồn phách vẫn vấn vương trước khi bắt đầu câu chuyện này, tôi không hề có ý xâu chuỗi những câu chuyện ở thôn Cơ đã viết và chưa viết lại với nhau thành một bộ biên niên sử. Chẳng qua là vì, trận hỏa hoạn lớn nhất từ trước đến nay trong lịch sử thôn Cơ, lại do Tang Đan, người mẹ mà Cách Lạp bỏ lại trên đời này châm ngòi đầu tiên.

Trận hỏa hoạn hủy hoại tất cả ấy đã cháy đúng mười ba ngày. Cách Lạp chết đã lâu, người mẹ nổi tiếng ruột để ngoài da của cậu không hề tỏ ra buồn bã xót xa.

Mọi người hỏi: “Tang Đan ơi, con trai chết mà sao cô không nhỏ một giọt nước mắt nào thế?”

Đôi mắt vốn đã mông lung của Tang Đan càng lộ vẻ mông lung hơn: “Không, không đâu, Cách Lạp đang bẫy thỏ trong rừng.”

“Cách Lạp nhà tôi ở trên núi cho yêu tinh rừng già ăn.”

Mọi người hỏi: “Nếu chưa chết làm sao làm bạn với yêu tinh rừng sâu được chứ?”

Tang Đan không trả lời, chỉ cười ngây dại, như ẩn chứa điều kỳ diệu.

Nụ cười và khuôn mặt xinh đẹp của cô vẫn làm mê mẩn cánh đàn ông thôn Cơ. Đôi khi cô còn hát một mình. Mọi người nói: “Đâu có phải là người, mà là yêu tinh đang hát.”

Mái tóc của người đàn bà này đã bạc trắng, nhưng lại láng bóng như mái tóc đen nhánh bồng bềnh của thiếu nữ khiến người khác ngơ ngẩn, khiến người khác nghĩ rằng mái tóc này chắc chắn phải được chăm sóc cầu kỳ và đặc biệt lắm. Khuôn mặt cô lúc nào cũng trắng hồng, đôi mắt như hồ nước trong vắt mà sâu thẳm. Dưới bộ quần áo rách rưới kia, cơ thể như rắn của cô chầm chậm di chuyển, khiến người khác nghĩ tới con quái thú thân hình nhẵn bóng dưới đáy hồ trong truyền thuyết. Ngay giữa bãi đất cao khổng lồ được rừng tùng bao bọc ngay lưng chừng núi sau lưng thôn Cơ có một cái hồ sâu như vậy thật. Hồ đó có tên là Sắc Mô Thố.

Sắc Mô là yêu quái, Thố là hồ. Sắc Mô Thố có nghĩa là hồ yêu quái.

Từng có hai đội thăm dò địa chất đến đây, có quan điểm khác nhau về cái hồ này. Đội này nói, hồ này là cái hố sâu đào từ thời kỷ băng hà cổ đại. Đội kia nói, cái hố sâu này do đá trên trời rơi xuống tạo thành.

Đội địa chất cũng chỉ tiện mồm nói vậy, chứ họ không đến đây vì cái hồ sâu này.

Thời đó, thế giới bên ngoài thôn Cơ là những năm tháng có thể vì một câu nói mà trở nên điên cuồng. Tất nhiên, câu nói đó không phải ai cũng nói được, mà buộc phải nói ra từ miệng của người ở Bắc Kinh nghe nói có thể vạn thọ vô cương, vì thế bắt thôn Cơ đóng góp gỗ bạch dương tốt nhất để xây cung Vạn Thọ, mới có thể phổ biến khắp nơi.

Hai đội địa chất, một đội đến để xem trên núi có bao nhiêu gỗ có thể chặt. Một đội đến tìm khoáng sản. Họ chỉ đứng cạnh hồ bàn tán như vậy khi thu dọn thước dây đo cây, búa gõ nham thạch cùng chiếc gương có thể chiếu được điều kiện địa chất phức tạp của mặt đất và lòng đất mà thôi.

Cầm chiếc gương báu này đều là những người có học vấn uyên bác đấy.

Lúc đầu, thôn Cơ có người lo lắng, liệu chiếc gương trong tay những người này có soi thấy vịt vàng trong hồ Sắc Mô Thố không nhỉ, hình như họ không thấy. Nhưng, liệu bảo bối trong hồ có bị chiếc gương làm cho hoảng sợ không nhỉ, điều này thì không ai biết.

Giờ mới là lúc câu chuyện thực sự bắt đầu.

Một mùa xuân hạn hán chưa từng có trong lịch sử thôn Cơ.

Mùa xuân ở thôn Cơ, lẽ ra phải đến như thế này: Trước tiên, gió đổi hướng. Gió từ Tây Bắc thổi tới đã bớt phần cắt da cắt thịt, gió Đông Nam ấm áp ôn hòa men theo lũng sông rộng thổi vào. Bị những cơn gió ngày một ấm áp thúc giục, tuyết dày tan chảy, băng cứng tan ra, dòng suối đóng băng cả mùa đông phát ra âm thanh vui tai. Dưới ánh nắng mặt trời ấm áp, những cành cây khô cứng cũng mềm dần ra, một cơn gió nhẹ thổi tới khiến chúng lắc la lắc lư như thiếu nữ gợi tình. Đất đai cũng bừng tỉnh, một chút ẩm thấp, một chút xốp mềm, lưỡi cày lật mảng đất phì nhiêu, hạt giống được gieo xuống từ tay các chị em, sau đó là vài trận mưa phùn, hoa màu cứ thế nảy mầm.

Thế nhưng, vào mùa xuân hạn hán chưa từng có này, hoa màu gieo trên ruộng tuy có nhú mầm, nhưng ông trời không cho nước mưa mà là ánh nắng chói chang. Những mầm xanh li ti co cụm lại thành từng mảng một cách bất lực, lúc có gió, không nhìn thấy màu xanh dập dờn của hoa màu trên đồng, ngược lại chỉ cuốn tung lên những lớp bụi.

Mầm xanh không chịu lan tỏa, ngày tháng vẫn trôi đi như những năm hoa màu sinh trưởng bình thường. Sau khi gieo hạt cũng là lúc mọi người sửa sang hàng rào. Đất ruộng ở thôn Cơ dựa vào một bên núi, đều phải quây hàng rào chắc chắn. Thú rừng quá nhiều, phải đề phòng chúng đến phá mùa màng.

Lúc sửa hàng rào, thỉnh thoảng có người đặt tay lên trán, nhìn về phía con đường phía xa. Thỉnh thoảng, những người này còn lẩm bẩm: “Đến lúc Đa Cát về rồi.”

Hôm nay, lúc đang lẩm bẩm câu này, có người đã nhìn thấy bụi đất bốc lên mù mịt từ phía cửa sông đằng xa. Bụi đất giống cây cột to bay lên, bay lên, sau đó đổ ầm xuống, khói bụi mù mịt. Thế nhưng không ai nhìn thấy.

Ương Kim đứng dậy, một tay chống nạnh, có thể nói là “phốp pháp” ở cái tuổi này, một tay giơ lên làm động tác lau mồ hôi nhanh gọn, rồi kêu lên: “Nhìn kìa, ô tô đến rồi.”

Mọi người cười ồ lên. Vì động tác quen thuộc này của Ương Kim béo tròn béo trục đều là cố tình bắt chước. Cô bắt chước ảnh trên báo, nhân vật nào đó trong phim, cũng có khi là một kiểu tạo hình nào đó trên tranh cổ động.

Ương Kim bất chấp điều này, không chờ dứt tiếng cười, cô đã chạy như bay ra đường cái. Sau lưng cô là một lớp bụi. Rất nhiều người chạy theo cô xuống núi, trong mùa xuân khô hạn này, bụi lại càng nhiều hơn.

Cánh đàn ông bốc gỗ bạch dương lên ô tô còn nhớ như in, hôm đó, gỗ bốc lên vai nhẹ tênh, khô hạn khiến nước trong gỗ cũng bay hơi gần hết.

Cứ ô tô đến là hầu hết bà con trong thôn lại tập trung ở đó. Giống hệt ngày trước, thậm chí có người hỏi bác tài: “Bác có trông thấy Đa Cát không?”

Tài xế thời đó còn oai hơn cả cán bộ công xã, vì thế, những câu hỏi đại loại thế các bác đều không thèm trả lời.

Tang Đan mái tóc trắng muốt, nước da hồng hào cũng ngây dại đứng trong đám đông. Có điều khác lạ là, lúc đó, trên đầu mọi người, hình như có một làn gió không có mùi bụi đất thổi lướt qua. Mọi người đều ngẩng đẩu lên, nhưng không nhìn thấy gì. Bầu trời vẫn xanh pha chút xám, trong gió vẫn có mùi bụi đất khô hanh. Chỉ có Tang Đan ú ớ một tiếng, cơ thể mềm nhũn ngã xuống đất.

Có người chạy tới bấm vào nhân trung của cô, nhưng cô vẫn không tỉnh lại.

Ương Kim chạy đến bờ suối, ngậm một ngụm nước to, chạy về, phun lên mặt cô, Tang Đan mới từ từ mở mắt, nói: “Cách Lạp của tôi chết rồi, linh hồn của Cách Lạp bay đi rồi.”

Ương Kim chớp chớp đôi mắt trắng dã ngửa mặt lên trời: “Cuối cùng thì cô cũng đã tỉnh táo lại rồi.”

Tang Đan nhìn lên trời mắt đảo liên hồi, nói: “Nghe kìa.”

Ương Kim nói: “Tang Đan ơi, cuối cùng thì cô cũng hiểu ra Cách Lạp nhà cô đã đi rồi, vậy thì cô cứ khóc đi.” Nói rồi, nước mắt Ương Kim ứa ra. Cô gái này giống mẹ, thích khoe khoang, tâm tính không xấu, yêu ghét rõ ràng, nhưng lại bị “não cá vàng”. Cô lắc vai Tang Đan, “Cô phải tỉnh lại đi, nếu cô đã tỉnh lại thì cứ khóc đi.”

Tang Đan kiên định lắc đầu, mím chặt môi, không khóc, cũng không nhỏ một giọt nước mắt nào. Sau đó, cô lại dỏng tai lắng nghe, nét mặt lộ nụ cười khó hiểu. Vẻ mặt đó khiến Ương Kim chột dạ, cô quay mặt lại, nói với mẹ A Kim: “Mẹ, giúp con một tay.”

“Con thì giúp được gì chứ?”

“Con muốn giúp cô ấy khóc ra được.”

A Kim nói: “Mọi người đều xem thường người này rồi, không ai có thể giúp cô ấy khóc được đâu.”

Tang Đan thờ ơ nhìn A Kim một cái, A Kim nhìn ánh mắt cô, nói: “Tang Đan, cô thấy tôi nói có đúng không?”, Tang Đan nhìn chằm chằm vào A Kim với ánh mắt lạnh băng. Ánh mặt trời ấm áp chiếu rọi, nhưng A Kim lại thấy mùi bụi đất bay trong không trung đều đã đông lại, bà lờ mờ cảm thấy sợ hãi. Nhưng người đàn bà tính tình cương trực này lại nổi cáu vì thấy sợ. Xã hội mới rồi, công xã nhân dân rồi, tuy bản thân vẫn sống cuộc sống nghèo khó, nhưng người nghèo được làm chủ, bản thân cũng được làm chủ tịch hội bần cố nông, người giàu trước đây khúm na khúm núm, cũng bần cùng chẳng kém gì người nghèo. Người đàn bà thần bí này nghe mọi người xì xào, còn là đại tiểu thư con nhà giàu, thế mà hôm nay cũng đến nước này, thì mình còn sợ gì cô ta chứ?

Thế là, bà lại nói: “Tang Đan, tôi đang nói chuyện với cô đấy, sao cô không trả lời?”

Tang Đan lại tủm tỉm cười, nhìn bà một cái: “Cách Lạp của tôi đi thật rồi sao?”

“Ôi dào! Thật đúng là, cô lại quay sang hỏi tôi! Nói cho cô biết, Cách Lạp nhà cô, thằng bé tội nghiệp đó chết lâu rồi. Chết được cũng tốt, đỡ phải chịu giày vò cùng cô.”

“Thật không?” Tang Đan nói.

“Thật không? Lẽ nào không phải sao?”

Đôi mắt đẹp của Tang Đan hình như ứa lên đầy nước mắt, nếu nước mắt cô chảy xuống, A Kim sẽ ôm người đàn bà đáng thương này vào lòng, thật lòng an ủi cô. Nhưng người đàn bà đáng kiếp này lại ngửa mặt lên, lại rì rầm gì đó với bầu trời trong xanh. Môi cô run run mấp máy một chập, nhưng lại không bật ra tiếng khóc đau đớn, mà lại vẫn thốt ra chữ đó:

“Nghe.”

Hơn nữa, khẩu khí của cô còn có chút hăm dọa.

A Kim nói: “Mọi người nói cấm có sai, cô đúng là điên rồi.”

Đôi mắt thăm thẳm như hồ nước của Tang Đan gợn lên chút mỉa mai, nói: “Nghe thấy gì chưa, đôi vịt trời trong hồ Sắc Mô Thố bay đi rồi.”

Cô nói rất nhỏ, như nói chuyện một mình, nhưng tất cả những người có mặt đều nghe thấy.

“Tang Đan nói gì thế? Vịt vàng bay đi rồi?”

“Vịt vàng bay đi rồi?”

“Cô ấy nói thần bảo vệ Sắc Mô Thố, thần bảo vệ rừng già của thôn Cơ bay đi rồi?”

“Trời đất ơi!” Sắc mặt chủ tịch hội bần cố nông A Kim lộ vẻ sửng sốt.

Ương Kim đỡ mẹ đang hơi lảo đảo, nói: “Mẹ không nên tin những lời nhảm nhí đó!” Cô còn chĩa ngón tay mũm mĩm, ngắn tũn về phía đám người, nói: “Các người cũng không nên tin những thứ mê tín phong kiến đó!”

“Ý cô là, thôn Cơ không còn thần bảo hộ nữa sao? Thế trước đây thì sao? Ai đã bảo vệ bà con thôn Cơ chứ?”

Ương Kim cứng họng: “Dù sao cũng không được tin những lời xằng bậy như thế!”

Mọi người đều muốn hỏi thêm Tang Đan sao lại thốt ra những lời này.

Đám thanh niên Ương Kim và trung đội trưởng dân quân Sách Ba lại muốn chất vấn cô vì sao giữa thanh thiên bạch nhật lại tuyên truyền những thứ mê tín.

Phần đông bà con thôn Cơ lại muốn gặng hỏi cô, họ thấy cô tội nghiệp mà cho ở lại, cũng không truy hỏi lai lịch của cô, thế mà sao cô lại nỡ nguyền rủa thôn làng yên tĩnh cổ xưa đã tồn tại hơn nghìn năm này chứ? Tương truyền, ngày xưa thôn Cơ gặp hạn hán giá rét, khắp nơi đồi trọc hoang vu. Nước hồ Sắc Mô Thố cũng đóng thành khối băng khổng lồ đến tận đáy. Sau đó, đôi vịt trời vàng xuất hiện, mang ánh nắng đến, băng tan chảy, núi đồi mới ấm áp và tươi tỉnh dần lên, cây cối sinh trưởng, chim muông bay lượn, con người sinh sôi. Thế mà bây giờ cô lại dám nói đôi vịt vàng đó đã bỏ rơi thôn Cơ rồi.

Cơn giận bốc lên ngùn ngụt trong lòng, nhưng mọi người làm gì được người đàn bà dở điên dở dại này chứ, đành nhìn cô rời khỏi với tâm trạng bi thương.

Mọi người nhìn theo cái bóng xiêu vẹo của cô. Hơn nữa, người trong thôn ai cũng nghe thấy tiếng khóc ai oán của cô, cô vừa khóc vừa kêu than: “Đi rồi, đi rồi, đi thật rồi.”

Không biết cô khóc con trai mình hay khóc thần hộ vệ thôn Cơ. Đám thanh niên lòng đầy chính nghĩa muốn kéo cô lại thì một vầng mây đen cuồn cuộn bốc lên từ hướng đường quốc lộ nơi cửa sông phía đông.

Mây đen cuộn tròn, lăn lộn, vô cùng hung hãn, cuồn cuộn bốc lên trời. Nhưng cũng chẳng là gì so với bầu trời trong xanh thăm thẳm.

Mây đen hình trụ vốn chỉ xuất hiện vào mùa hè. Mùa hè, mây mang theo hơi nước ẩm thấp của cây cối rậm rạp um tùm dưới đất, bay lên, đánh sấm ùng ùng, phóng ra tia chớp điện ngoằn ngoèo chói mắt hình mãng xà, bay lên, sau đó bị gió lạnh trên trời huých ngã, đổ rầm một cái như núi lở, trút mưa đá xuống mùa màng bên dưới.

Vấn đề là bây giờ không phải mùa hè, mà là mùa xuân, trong không khí rặt một mùi khói bụi khô hanh đến nứt nẻ, dưới đất làm sao lại bốc lên được cột mây như thế. Mọi người lao xao một hồi rồi yên tĩnh trở lại. Tuy họ lấy làm lạ, nhưng cột mây đen đó chỉ cuồn cuộn bốc lên ở chỗ cửa sông trọc lốc đổ sầm xuống, che kín cả bầu trời trong xanh không rất xa, không giống như mây đen mang theo mưa đá mùa hè, chẳng mấy chốc đã bay lên trời, sau đó dãy núi gần như một gợn mây.

Chiếc xe tải chở đầy gỗ bạch dương lặc lè rời đi, mọi người quay về thôn ăn trưa, lúc lười biếng đi lên sườn núi sửa sang hàng rào, ngẩng đầu lên nhìn, cột mây đen vẫn ở đó.

Các cụ thở dài, thở dài vì hoa màu trên đồng ruộng khao khát mưa, cũng vì cái bụng của mọi người trong năm tới. Nỗi trăn trở này khiến mọi người linh cảm có gì đó chẳng lành khi xuất hiện cột mây đen chưa nhìn thấy bao giờ ấy. Họ ngó sang phía đông, màn đêm tối sẫm.

Lúc màn đêm khép lại, cột mây đen đó cũng mất dạng, cứ như chưa từng xuất hiện vậy.