H
ai tháng sau, bé Phúc ra viện. Người mẹ xót xa vô hạn khi biết từ nay con chị sẽ không còn như trước nữa. Một thằng út vĩnh viễn ra đi, một thằng kế nó cụt bên tay phải sau tờ đơn li hôn. Cuộc đời chị sao gặp lắm cảnh trái ngang đến thế! Nỗi khổ này chưa vơi thì niềm đau khác lại đã tới, trút nặng lên đầu lên cổ chị. Ông trời nhẫn tâm trừng phạt chị quá nặng nề, chị thầm trách bản thân mình:
“Có lẽ kiếp trước vụng tu quá cho nên kiếp này các con phải trả thay cho chị. Chỉ có điều lần này, hai vết dao rạch thẳng vào tim sâu quá”. Chị ngã quỵ tưởng chừng không sống nổi. Một con người đẹp nết, đẹp người, nhưng chịu nhiều bất hạnh… Để cuối cùng chị cũng phải chấp nhận đau thương tang tóc. Nghĩ đi nghĩ lại, cũng tại cái số trời định thế thì phải chịu thế. Chẳng biết phải làm gì hơn được nữa. Chị nghĩ và tự an ủi lấy mình. Sướng khổ, hạnh phúc hay đớn đau đều có thể đơn phương hoặc song song tồn tại trong cuộc đời của mỗi con người. Hải Thanh ý thức, hiểu được điều đó. Càng hiểu, chị càng thao thức, trăn trở để rồi lại khát khao và lại càng thấm thía hơn, lại càng ước vọng cháy bỏng hơn… Chị ngồi đó, đêm lại từng đêm. Chị ngồi lặng hồn nghe dòng đời trôi chảy mãi. Chị nghĩ cuộc đời là phù du mà sao cay đắng vô vàn thế. Chị ngồi rất lâu bên ngọn đèn, chiếc bóng nhỏ heo hắt đơn chiếc, khi tuổi đời 26 tuổi mà chua chát. Bóng trăng chênh chếch cuối góc trời xa.
Một đêm, rồi hai đêm. Mẹ ơi! Mẹ chưa ngủ à?
- Vũ chợt tỉnh giấc, thấy mẹ vẫn thức buồn bã, lồm cồm dậy gọi mẹ. Nhưng hình như mẹ không nghe, mẹ đang quay mặt về phía cửa sổ để nhìn màn đêm. Bầu trời đêm hun hút, mênh mông, thăm thẳm như đang nghiến ngấu cuộc đời của mẹ. Vũ nhích lại gần gọi to hơn:
- Mẹ ơi! Trời sắp sáng rồi!
Hải Thanh quay lại, đôi mắt buồn buồn của chị ánh lên những lời âu yếm, xót xa nhìn con an ủi, chị nhắc nhỏ nhẹ:
- Ngủ đi con! Đừng làm em tỉnh giấc.
Chị nhẹ nhàng đi lại bên giường con. Ngồi xuống cạnh con trai. Vũ ôm lấy cổ mẹ hỏi:
- Mẹ nghĩ gì vậy? Mắt mẹ thâm quầng nổi lên rồi đó. Kìa……
….
- Mẹ. Mẹ hãy ngủ đi mẹ ơi!
Chị chiều con trai, đến nằm bên hai con thiếp đi một lúc. Rồi chị lại giật mình ngồi dậy. Đầu óc chị lại quay về quá khứ về lại cuộc đời chị lúc bước về làm dâu họ Nguyễn từ tuổi mười bảy. Do hai mẹ cùng làm ăn buôn bán với nhau rồi hai mẹ cùng hứa gả con cho nhau. Thời đó chiến tranh vừa kết thúc, cuộc sống của hai gia đình vô cùng khó khăn. Gia đình bên chị là gia đình Cách Mạng. Từ cha mẹ đến các anh chị và đến chị Hải Thanh đều làm Cách Mạng, bên nội cũng thế. Hải Thanh đột nhiên nghĩ về quá khứ mười năm về trước khi đi lấy chồng. Chị nhớ cái lúc đầu chuẩn bị đi đăng ký ở Ủy Ban xã. Bây giờ nghĩ lại thấy cũng buồn cười. Nghĩ thấy mà đau lòng và khờ dại thật. Cha mẹ cũng quá hiền nữa cơ, còn mình thì quá trẻ con đâu biết gì. Ngày đó bố chồng sang nhà cha mẹ trình chuyện bảo rằng thằng Phụ, ba hôm nữa nó về phép, ông bà cho con Hải Thanh đi đăng ký ở xã trước với tôi cho kịp kẻo phép quá ít sợ thời gian không đủ cho hai đứa vui. Thế đó! Bố chồng đưa con dâu lên Xã đăng ký kết hôn. Bố chồng thì ký tên thay chồng, còn tôi đăng ký tên vợ. Thế là ngày hôm sau, với hai ký kẹo kéo quấn giấy loại hai mẹ tự làm lấy, cùng với hai cây thuốc Tam Đảo là xong đám cưới. Khổ nỗi, ngày đó gia đình chúng tôi đều nằm chõng tre, giường tạp. Cưới con dâu mà gia đình không lo được giường chiếu gì. Cái giường “hạnh phúc” của đôi trẻ là giường tre cũ kĩ. Cô dâu tuổi mười bảy, đang thời “bẻ gãy sừng trâu”, tân lang là một người lính tuổi ngoài hai mươi đầy sức sống. Đôi trẻ còn khờ khạo lắm. Hai người vừa nằm lên giường, một cái “rầm” chiếc giường gãy gục. Hai đứa trải chiếu xuống nền nhà. Đêm tân hôn của trai anh hùng, gái thuyền quyên thời chiến tranh như vậy đó. Sau những phút ái ân nồng thắm, đôi trẻ ôm nhau ngủ mê mệt. Ba giờ sáng, thật không ngờ, mẹ chồng gõ nhẹ cửa gọi hai đứa dậy xay lúa có gạo ăn buổi sáng để ra đồng đi cấy. Mần răng chừ? Bốn tay bốn chân muốn rã rời, bốn mắt muốn ríu lại đây mà… Mần răng chừ. Hải Thanh hỏi chồng: “Chừ mần răng nì? Sức mô để kéo cối xay, sức mô để giã gạo”. Cũng tội cho anh Phụ. Hai đứa đưa hết hơi và sức để xay giã một bao thóc nửa tạ thành gạo trắng. Sáng mai, mấy chục ký gạo trắng muốt đã có để cả nhà nấu ăn cùng ra đồng cày cấy. Ba giờ sáng dậy xay lúa giã gạo, cả một ngày hết nhổ mạ thì gánh phân, cấy lúa. Tối về, tay chân cứ như tay chân mượn, tắm rửa giặt giũ, ăn uống xong, loa truyền thanh cây bàng sau chương trình “Sân khấu truyền thanh” đã ngưng hoạt động, Hải Thanh mới vào buồng đi ngủ. Phụ nằm nép một góc chiếu, ngáy o o. Không muốn phá giấc ngủ ngon hiếm thấy ở chồng, Hải Thanh nhẹ như con mèo rình chuột nằm xuống bên cạnh. Đang sức ăn sức ngủ, lại vừa qua một ngày lao động mệt mỏi, vừa nằm xuống chiếu, Hải Thanh thiếp đi lúc nào không biết. Năm giờ sáng, có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, Hải Thanh mở mắt quan sát, thấy Phụ vẫn nằm nghiêng góc chiếu, ngủ ngon lành. Xuống bếp lo bữa sáng với mẹ chồng, Hải Thanh vừa làm vừa ngáp. Nhìn con dâu, mẹ chồng Hải Thanh nói ấm ức: “Các chị bây giờ đến lạ, ngày tôi về làm dâu nhà này, chả bao giờ dám vào buồng ngủ trước bố mẹ. Sáng nào cũng dậy trước chuông nhà thờ. Lợn gà cám bã, cơm nước đâu đấy rồi còn quét tước hết nhà trong cửa ngoài. Làm lụng vất vả mà đâu có được ăn no. Cả năm cả tháng không biết đến mùi miếng thịt miếng cá... Các chị bây giờ đến lạ! Rõ thật là có voi đòi tiên. Mà này... Vợ chồng mới cưới, ăn ở cũng phải có chừng có mực, anh Phụ nhà này không được khỏe, lại vừa đi đánh giặc về, chị phải giữ sức khỏe cho anh ấy. Nói giữ sức khỏe cho anh ấy là chị giữ cho chị chứ chẳng phải cho chúng tôi. Vợ chồng còn nhiều dịp gặp gỡ...”. Nghe mẹ chồng nói, Hải Thanh chỉ biết im lặng. Im lặng một cách nhẫn nại. Cũng chính vì cứ im lặng nhẫn nại mà sau này Hải Thanh bị nhà chồng đẩy hết từ éo le này đến gian nan khác. Thế là “tuần trăng mật” của vợ chồng chỉ có hai đêm ba ngày. Ba cái ban ngày coi như bỏ, vì tiếng gọi là buồng chứ cửa lẻo có gì chắc chắn. Vả lại, ngày nào cũng dậy sớm cơm nước cho cả nhà rồi phải ra đồng cấy cho kịp thời vụ. Thế vậy mà “tuần trăng mật” ấy cũng có hiệu quả. Chín tháng mười ngày sau, thằng Vũ có mặt trên đời.
Nghĩ lại cuộc đời ở với nhau mười năm, ba đứa con. Tiếng là mười năm tình nghĩa vợ chồng nhưng thực tế giây phút bên nhau thật sự hạnh phúc rất ít ỏi, có thể kể đếm trên đầu ngón tay. Chị ngồi tính nhớ rất rõ như ban ngày, thời gian ghé về cưới vợ chỉ có ba ngày, ba ngày đêm cuộc sống vợ chồng trải chiếu nằm đất cho ra thằng Vũ. Mãi đến bốn năm sau, đơn vị Phụ chuyển từ mặt trận Tà Khẹt - Lào sang CamPuChia, Phụ được ghé về một tuần. Một tuần về thăm nhà, vợ chồng Hải Thanh có thêm thằng Phúc. Năm 1980 hoàn thành nghĩa vụ Quốc tế, được phong quân hàm, Phụ có về thăm nhà nhưng thái độ với vợ con khác hẳn.
Phụ đổi tính đổi nết. Mắng vợ, đánh con liên tục. Nỗi đau mất mát không thể bù đắp, Thanh thương mình thì ít mà thương anh Phụ vô cùng. Tuổi xuân của anh đang là phía trước, đang là mặt trận biên giới. Anh ghé về thăm gia đình. Bố mẹ chồng thấy con trai xanh xao vì căn bệnh sốt rét rừng, sợ về gần gũi vợ bệnh sẽ nặng thêm nên không muốn cho con ở với vợ. Thời gian này Hải Thanh được địa phương giúp đỡ làm cho một căn nhà tre ở cuối xóm. Gọi là nhà cho oai chứ thực ra căn nhà đó rộng chừng ba chục mét vuông, kèo cột là những cây tre nhỏ, tường vách trét đất trộn phân trâu. Nghe tin chồng về, Hải Thanh bế con náo nức chờ đợi. Mãi không thấy chồng về, Hải Thanh dò hỏi mới biết bố mẹ chồng giữ con trai không cho về nhà. Mấy ngày nay ông trời đang rả rích đổ xuống những trận mưa. Nước lũ kéo về, nhà cửa nhiều nơi thấp trũng đã bị ngập. Lấy cớ sang xem nhà cửa mẹ con thằng nhỏ, Phụ rón rén về. Cầm tay vợ Phụ bày kế: “Em giả đò kêu nước lũ ngập nhà, tính mạng mẹ con bị đe dọa”. Nghe theo lời chồng, Hải Thanh kêu to: “Bớ làng nước ơi, nước lũ vô nhà tôi rồi, cứu cứu mẹ con tôi với, bớ làng nước ơi.
Thằng Vũ con tôi không biết trôi đâu rồi…”. Nghe tiếng kêu cứu, cả xóm chạy ào ra. Nhanh trí Hải Thanh múc nước đổ lên người Vũ, thằng bé không biết gì hốt hoảng la hét. Dân làng kéo đến mỗi lúc một đông vậy mà ông bà nội thằng Vũ không hề đoái hoài. Nước lũ rút, đêm đó trong căn nhà dột nát tường dậu rã rượi thế mà vợ chồng Hải Thanh vẫn cảm thấy hạnh phúc tột độ. Thằng Phúc ra đời cũng từ đêm hôm mưa gió, chính cái tên Phúc cũng nói lên điều đó. Đến lần thứ ba, anh về nhà từ mặt trận Lào, theo tàu quân sự. Chuyến tàu quân sự đó dừng nghỉ ở ga Long Đại Nam Hiền Ninh Quảng Ninh Quảng Bình. Nhận được tin chồng về mà không thấy, Hải Thanh đạp xe ra ga hỏi mới biết tàu chỉ dừng lại nghỉ tiếp nhiên liệu chừng một tiếng thôi. Phụ dặn vợ ra bờ kênh đón.
Bóng trăng chênh chếch, gió chính nam thổi vít ngọn tre. Những luống khoai lang đang độ làm củ xanh um nằm im lìm hứng ánh trăng và sương đêm. Hải Thanh ra đến bờ kênh thì đã nghe lác đác tiếng gà gáy. Chờ đón cả ngày mong được gặp chồng, Hải Thanh không cảm thấy mệt mỏi mà chỉ lo hai con ở nhà thức giấc không thấy mẹ sẽ khóc.
Trẻ con khóc đêm, chẳng sự này cũng sự khác, Hải Thanh ý thức được điều đó nhưng lúc này cả tâm trí đang dồn nén để mong gặp chồng đâu có nghĩ xa xôi thế. Tàu kéo còi vào ga, Hải Thanh tính nhanh trong đầu, một cây số rưỡi đường bờ sông, bờ ruộng, có nhanh như tên bắn cũng phải mươi mười lăm phút... Thật không ngờ... Phụ xuất hiện trước mặt Hải Thanh như từ trên trời rơi xuống. Mà đúng như từ trên trời rơi xuống cho đôi vợ chồng trẻ lâu ngày gặp nhau một cuộc ái ân kì diệu. Nỗi khao khát dồn nén của cả hai phía, Hải Thanh cởi vội quần áo, lao vào, Phụ giật tung mảnh vải dù khoác ngoài, khuy áo cúc quần nhanh chóng nghỉ làm nhiệm vụ. Đôi trẻ quấn lấy nhau, Hải Thanh hôn khắp người chồng, hôn lên vết thương vừa lên da non sau lưng anh, cất tiếng như trách móc, hờn dỗi: “Anh Phụ... em nhớ anh lắm, anh không về thăm gia đình bố mẹ và các con, giả thử em sợ ma không giám ra đây thì vợ chồng mình đâu có được gặp nhau. Em nhớ anh lắm... Lắm... Lắm”. Phụ nhẹ nhàng vuốt lưng vợ, anh như mê như dại nhìn chằm chằm vào bầu ngực căng tròn phập phồng nóng ran. Bao nỗi khát khao dồn nén, anh ghì chặt vợ, thổn thức: “Hải Thanh có nhớ anh không, dù xa nhau nhưng không lúc nào anh không nhớ đến mẹ con em. Anh thật sự biết ơn em đã nuôi dạy các con....”. Hải Thanh Ngồi lên bụng Phụ, nói qua hơi thở gấp: “Anh đừng nói thế... Được gặp nhau ân ái thế này em mãn nguyện lắm rồi, chỉ lo... Nuôi nấng dạy dỗ hai con em đâu có ngại, giả thử mình gặp nhau lần này lại có em bé thì...”. Phụ ghì chặt vợ, nói nhẹ như gió thoảng: “Nếu có em bé thì càng vui chứ sao, mình sẽ đặt tên cho con là...”. Hải Thanh kéo chồng ngồi vào lòng mình thủ thỉ: “Anh không về nhà, vợ chồng mà như tình nhân tình ngãi thế này nếu giả sử có em bé thật, em lo gia đình đôi bên, bố mẹ làng nước không nghĩ là em chửa với chồng...”. Phụ cướp lời vợ: “Có trời biết, đất biết, có luống khoai lang, có hòn đá mọc ở cánh đồng này biết, vợ anh, con anh sự thể thế nào có anh đây em lo gì...”. Đôi trẻ xoắn xuýt lấy nhau, quằn quại đê mê như tan như biến vào nhau như không hề biết có trời có đất gì nữa. Nhưng... Thật nhiều cái nhưng trớ trêu, cách chỗ vợ chồng Hải Thanh có đúng ba luống khoai lang một bóng đen nằm như dán xuống nền ruộng lạnh, đó là ông Đạc người bà con họ nhà Phụ. Ông Đạc bị tật ở chân từ nhỏ, đi tuyển bộ đội không đắt đã đành, làm đơn xin đi dân công hỏa tuyến cũng không được xét. Ủy ban đưa giấy về thôn ghi rõ: “Không đủ sức khỏe phục vụ...” Sức khỏe phục vụ nhiệm vụ trai thời chiến không có nhưng ông Đạc lại dư sức phục vụ vợ. Vợ yếu con đông nên những tháng giáp hạt ông Đạc thường phải đi kéo vó kiếm con tôm mớ cá về bán đong gạo. Đêm đó, vác vó ra sông thả mấy mẻ mà chẳng được con gì, thấy khoai lang xanh tốt, móc tay nhấc thử mấy khóm, chao ôi lúc lỉu những củ là củ. Đang định móc ít khoai về độn bữa thì ông Đạc thấy bóng cô giáo Hải Thanh và anh bộ đội. Nằm cách nhau có ba luống khoai lang, mọi sự, mọi lời ái ân của đôi trẻ ông như tạc, như ghi vào lòng. Thật khổ cho bà Đạc, thời gian sau đó ốm lên ốm xuống, cán bộ y tế ở trạm xá phải động viên mãi bà mới chịu đi kế hoạch...
“Nắng tháng Ba chó già lè lưỡi”, lần chửa này Hải Thanh không hề ốm nghén, ăn khỏe, ngủ khỏe, người cứ đẫy ra mặc cho cái nắng đầu hè gay gắt. Làng trên xóm dưới đã có nhiều tiếng xì xầm: “Chồng đi xa mà lại có chửa...”. “Cô Hải Thanh không chồng mà chửa....”... Bữa đem thóc đến trả mẹ chồng cô Hải Thanh, ông Đạc ướm hỏi: “Thằng Phụ dạo trong năm có về nhà không...?” Bà Phụ trả lời như đốp vào mặt, không biết có phải bà tức tối khi thấy thóc ông đem trả có nhiều hạt lép: “Về đâu mà về, con Hải Thanh chửa với chó với trâu, nó mà không đi kế hoạch như vợ chú, khi đẻ ra giống thằng nào làng này mới nhem nhuốc mặt...”. Có một lần Hải Thanh vô tình đi ngang qua nhà mẹ chồng, bà đứng trên bậc thềm chửi chõ xuống: “Mày có mang với chó với trâu, khôn hồn thì ra trạm xá làm kế hoạch đi chứ đẻ ra thì nuôi sao nổi. Con tao đâu về mà mày có chửa, thế mới chuyện lạ đấy. Để xem thằng Phụ về, nó xử lý con vợ đẻ hoang ra sao”. Hải Thanh buồn lắm, cô không biết thanh minh thanh ngãi với ai, chỉ âm thầm chịu đựng. Nỗi đau khổ đó Hải Thanh gánh chịu vì có niềm tin nơi chồng, và những đứa con ngoan. Cái sinh linh bé bỏng trong bụng chị hình như cũng cảm thông nỗi đau với mẹ nên nó rất khỏe, rất ngoan không hề quẫy đạp. Ái ân, truyền giống truyền nòi chẳng mấy ai đem chuyện đi khoe và cũng chẳng mấy người chứng kiến. Chuyện đó chỉ có người đàn ông và người đàn bà biết ai dè cái bụng người đàn bà lại chềnh ềnh ra khoe khắp với bàn dân thiên hạ. Không để nhà trường, xã hội cứ xì xèo mãi chuyện mình không chồng mà chửa, Hải Thanh đến tâm sự với chị cán bộ phụ nữ địa phương, nhờ Hội Phụ nữ can thiệp. Nói với mẹ chồng Hải Thanh chứ để bà gặp ở đâu là chửi, không hề có nể nang gì nhất là con dâu với cương vị cô giáo.
Những tưởng chuyện đó rồi cũng qua đi, ngờ đâu nỗi buồn thương lại dồn đến với Hải Thanh vì cuộc sống mưu sinh, vì nơi ăn chốn ở của mấy mẹ con. Nhà cửa quá tuyềnh toàng rách nát, nắng nôi đã vậy, mưa gió thì thật tội nghiệp, trong nhà chỗ thì che bằng tấm ni lông rách, nơi thì hứng chậu hứng xô. Tội nhất là hai thằng nhỏ, chúng cứ ngửa mặt lên mái nhà đếm những lỗ thủng trông rõ trời. Có lần đang nằm ngủ, bất thần tấm ni lông che giường bục rách, nước đổ thẳng xuống mặt, hai đứa nhỏ khóc thét lên cứ như có người giơ dao dọa giết. “Đêm nằm năm ở”, Hải Thanh quyết định tự làm lại nhà. Mượn chiếc đò của bạn học cùng thời Phổ thông cấp III, cô bạn này học xong không đi đâu mà ở nhà làm ruộng lấy chồng. Chiếc đò của cô bạn tuy nhỏ nhưng còn khá chắc chắn, Hải Thanh đi dạy học buổi sáng, buổi chiều đưa đò ra giữa sông múc cát chở về đổ đấy. Chỉ một thời gian ngắn, bụng mang dạ chửa, với con đò đi mượn, Hải Thanh đã tập kết được mười khối cát, hai mươi sáu khối đá về xây nhà. Một kỳ tích mà sau này ngồi nhớ lại Hải Thanh vẫn không khỏi giật mình, không biết sức mạnh đó có từ tình yêu thương chồng con hay còn vì một cái gì đó thật khó lí giải. Nhưng... Trớ trêu thay, không biết có phải do Hải Thanh làm quá sức không mà mới nằm trong bụng mẹ bảy tháng sáu ngày, thằng út đã quẫy đạp chui ra. Thời đó gia cảnh mấy mẹ con Hải Thanh rất khó khăn, tiền đâu để thuốc men bồi dưỡng nên thai nhi rất nhỏ, thằng út chui ra chỉ có một ký tư, to hơn con chuột cống. Hải Thanh sinh con trai, xóm giềng đến chơi đông đủ, đặc biệt hơn là vợ chồng ông Đạc đem đến một mớ khoai lang. Bế thằng nhỏ trên tay, bà Đạc bảo: “Để xem thằng này giống ai? Giống này không thằng Phụ thì ai nào. Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh. Phải cái hơi nhỏ nhưng không sao, có đầu có đuôi nuôi lâu cũng lớn. Khoai lang luộc ăn sẵn sữa phải biết...”. Ôi, đời là một chuỗi những bẽ bàng, thằng út càng lớn càng giống bố nhưng oái ăm thay, ba năm sau anh lính, cha nó mới về.
Ngày hôm đó, chim khách đậu ngọn tre đầu nhà kêu vang, Hải Thanh linh tính như sẽ có một sự thay đổi. Phụ về vào ban đêm, anh âm thầm gõ cửa. Hải Thanh thủ sẵn con dao, ra nhìn qua khe cửa, thấy chồng, chị quăng dao ôm chầm lôi vào nhà. Vợ chồng quấn quýt, xoắn bện vào nhau. Thấy động, thằng út mở mắt nhìn người đàn ông lạ hoắc đang đè trên bụng mẹ nó. Thằng út vừa la vừa hăm hở leo lên lưng ba nó: “Đánh chết mi này, đánh chết mi này...”. Hải Thanh thật sự xúc động thấy cha con thằng út “làm quen” theo kiểu kì lạ, chị bật khóc nức nở. Thấy mẹ khóc, thằng út cũng khóc theo. Nó nắm tóc Phụ vừa khóc vừa hét: “Đánh chết ông nỳ, ông đánh mẹ nỳ, ông lột đồ mẹ nỳ, mách bà nỳ...”. Thằng út vừa khóc vừa véo tai, vồ lấy tay ba cắn đến rớm máu cho đến lúc Phụ phải kéo chăn trùm kín nó mới chịu buông tha. Hải Thanh nghẹn ngào bảo chồng: “Anh chịu khó ra vườn đứng đợi, em dỗ con nín cho nó ngủ rồi hãy vô... Hai thằng kia dậy còn rách việc nữa kìa...”. Phụ vuốt má vợ: “Có ba nhân viên bảo vệ kiểu này, anh yên tâm lắm...”. Ra vườn, Phụ đưa mắt ngắm nhìn ngôi nhà thân thương Hải Thanh ngày đêm trông ngóng nuôi con chờ chồng mà thầm nể phục người vợ yêu quý. Trong nhà tiếng Hải Thanh ru con vọng ra tha thiết yêu thương: “Con cò đi đón cơn mưa. Tối tăm mù mịt ai đưa cò về. Cò về kẻo mẹ cò mong. Kẻo con cò khóc đau lòng cò con...”. Thằng út ngủ lại say sưa, Hải Thanh giắt mùng cho các con cẩn thận rồi rút tấm chiếu vẫn dùng trải ngồi ăn cơm xuống nền nhà, lách cửa ra vườn, kéo chồng vào nói nhỏ: “Khỏi giường chõng gì, các con anh thính lắm, chúng nó dậy thì chết...”. Tàu xe mệt mỏi, vợ chồng lâu ngày mới gặp, Phụ ngủ thiếp đi lúc nào không biết, tỉnh dậy đã không thấy mẹ con Hải Thanh đâu. Thì ra, dậy biết ba về, Vũ và Phúc đã chạy vào bà nội khoe. Thằng út sang bà Miền mách: “Đêm qua có ông nào đè bụng mẹ...”. Bà Miền phì cười: “Ông nào đè bụng mẹ mi. Ông đè bụng mẹ mi là ba mi đó”. Nghe bà Miền, thằng út chạy về chằm chằm nhìn Phụ đang rửa mặt ở bể nước đầu nhà. Nó kéo tay Phụ: “Ông là ba con thật hả, bà Miền không lừa con thật hả?”. Kéo con vào nhà, Phụ mở ba lô lấy con búp bê biết mở mắt nhắm mắt ngủ và bịch kẹo to cho thằng út: “Ba về với mẹ con con đây... Ôi, con trai của ba.”. Chuyến về thăm gia đình bố mẹ vợ con đó, Phụ, Hải Thanh vui nhiều nhưng cũng lắm nỗi buồn. Giải tỏa được thắc mắc trong lòng bố mẹ nhưng với đồng lương ít ỏi của cô giáo trường làng sao nuôi dạy được các con cho bằng chúng bạn. Ngoài đồng lương giáo viên thời bao cấp, Hải Thanh phải nhận thêm một suất ruộng khoán sản của HTX nhưng vẫn không đủ ăn.
Hải Thanh đang suy nghĩ mông lung quá khứ thì thằng Vũ tỉnh giấc. Thấy mẹ ngồi âm thầm một mình, Vũ đến bên ôm cổ mẹ. Hải Thanh kéo Vũ nằm xuống nói nhỏ vào tai con.
- Vũ ơi! Ngày mai con sẽ lại đến trường đi học con nhé.
Nghe mẹ nói, Vũ sững sờ cả người lồm cồm ngồi dậy: “Trường” và học ư? Hai tiếng ấy thôi, hai tiếng mà từ lâu con đã lãng quyên. Con lãng quên cái tuổi học trò tràn đầy thơ mộng. Mẹ cho con đi học thật hả mẹ. Con thương mẹ lắm, con sẽ học thật giỏi để mẹ khỏi lo...”. Giờ đây trong ánh mắt của cậu bé mười hai tuổi đầu còn đầy những nét hồn nhiên sôi nổi mà tại sao lúc nào cũng u sầu suy tư, buồn đau man mác như ngọn gió chiều thu nắng về... “Trường” và “học”, bây giờ Vũ nghe nó sao mà xa lạ vô cùng, xa lạ đến mức chính cậu bé nghĩ đến nó ảo quá chừng chứ không có thực nữa. Vũ không dám tin mình đã có một thời cắp sách náo nức và mê say học tập. Cũng có một thời Vũ ước mơ khi lớn lên Vũ sẽ trở thành một thủy thủ Hải quân đi theo tiếng gọi bảo vệ biển đảo. Mặc dù cha là lính bộ binh, Binh Đoàn 112. Binh Đoàn Trường Sơn. Ước mơ ấy rất bình dị trong sáng của một đấng nam nhi cơ mà và nó đâu phải là một điều không tưởng...
Vậy mà, có lẽ tất cả đã đổ vỡ kể từ buổi sáng mùa đông ấy. Giờ đây, hơn hai năm đã trôi qua, thời gian đủ để cho cậu bé hiểu rõ về cảnh éo le ngang trái của gia đình mình. Về nỗi niềm khổ đau mà mẹ con cậu phải cố gắng chịu đựng, gánh lấy. Vũ hiểu được những thiệt thòi, mất mát của gia cảnh nhà mình nên nó đâu dám đòi hỏi cuộc đời phải ưu ái. Vũ âm thầm nén lặng nuốt ngược nước mắt vào trong để cho mẹ thấy nụ cười, động viên mẹ đỡ phần đớn đau. Trường ư? Học ư? Nghe xa xôi quá, nghe mà huyền ảo quá. Vậy mà mẹ lại nói ngày mai cậu bé Vũ sẽ được đến trường. Một chút ngạc nhiên, một chút náo nức, xao xuyến… Nhưng rồi tất cả các từ đó nó đều lắng sâu xuống tận đáy lòng. Cái buồn xa xôi cố hữu của một tâm hồn đa cảm lại ùa về. Vũ buông mẹ nằm nhẹ nhàng xuống. Cậu bé cất tiếng chậm rãi, ưu tư to nhỏ như đang nói với chính mình: “Hai năm đã trôi qua rồi đấy mẹ ạ. Bạn bè cùng trang lứa với con đã bước chân vào cánh cửa trường Trung học. Mẹ ơi! Em cũng muốn đi học lắm chứ, nhưng nếu như thế, mẹ và em sẽ xoay sở ra sao? Hay… Con coi như thế đã đủ rồi, bởi làm sao có sự vẹn nguyên khi đến cái bình hạnh phúc đẹp như pha lê kia đã vỡ nát. Làm sao thay đổi được đây, đời con chấp nhận như thế, cũng như ngày xưa, sau bao nhiêu dằn vặt, mẹ đã chấp nhận gieo một chữ ký loằng ngoằng vào tờ đơn ghi dấu sự chia ly.
Con! - Người mẹ kêu lên nghẹn ngào.