Một số cha mẹ đã quen với các nghiên cứu về sự phát triển của não bộ thắc mắc “Làm sao mà tôi dám tin là bọn trẻ có thể chịu trách nhiệm về việc học hành của chúng chứ? Não bộ của trẻ còn chưa trưởng thành cơ mà.” Quan điểm này đúng ở một mức độ nào đó – óc phán đoán của trẻ vẫn đang phát triển. Nhưng điều đó có nghĩa là: trẻ cần có không gian để phát triển. Trẻ cần có trách nhiệm nhiều hơn mức trẻ đáng nhận được. Đối với hầu hết thanh thiếu niên, và thậm chí là cả những trẻ ít tuổi hơn, chờ đến khi trẻ đủ trưởng thành để tự làm bài tập về nhà và nộp bài đúng hạn rồi bạn mới từ bỏ vai trò người thúc ép có nghĩa là bạn đã chờ đợi quá lâu. Như chúng tôi đã đề cập, các phần của vùng vỏ não trước trán điều tiết cảm xúc vẫn chưa trưởng thành cho đến khi bạn bước sang những năm đầu của tuổi 30, nhưng chúng ta chẳng thể nào tìm ra một phụ huynh nào muốn chờ đến tận lúc đó mới để cho “bọn trẻ” tự ra quyết định.
Bộ não phát triển tùy thuộc vào cách nó được sử dụng. Bằng cách cho con cơ hội được tự ra quyết định cho bản thân khi còn nhỏ, bạn giúp cho não bộ của trẻ hình thành các liên kết thần kinh cần thiết cho sự kiên cường khi đối diện với căng thẳng. Những trải nghiệm nhỏ khi trẻ được kiểm soát các tình huống, ví dụ như tự lựa chọn quần áo hay trang trí phòng của mình, sẽ giúp vùng vỏ não trước trán được kích hoạt và rèn luyện để phản hồi hiệu quả.3 Ý thức tự kiểm soát này tăng cường sức mạnh cho phần Phi công của não bộ, khiến vùng này lớn mạnh hơn, thay vì trao quyền cho Chiến binh đánh sư tử ngay khi có dấu hiệu căng thẳng đầu tiên. Bằng cách cho phép trẻ năm tuổi có thể mặc quần áo tương phản màu sắc nếu trẻ muốn, bạn sẽ giúp trẻ ứng phó tốt hơn trong mọi tình huống, bao gồm cả những tình huống trẻ không thể kiểm soát được, ví dụ như khi ngồi trong phòng thi, hay khi ai đó bất hòa với trẻ.
Đúng là con đường dẫn tới vùng vỏ não trước trán được kích hoạt đôi khi rất đau đớn (và không phải lúc nào cũng nhìn thấy rõ ràng). Hẳn bạn còn nhớ câu thành ngữ truyền cảm hứng, “Thất bại là mẹ thành công.” Có một mô hình nổi tiếng chỉ ra bốn giai đoạn phát triển năng lực,4 cũng là một cách khác (dù có dài dòng hơn) để nói cùng một điều:
Giai đoạn 1: Chưa đủ năng lực mà không ý thức được điều này. Đây là một đứa trẻ với ý nghĩ rằng: “Mình tốt mà. Mình chẳng cần học toán, mình biết hết rồi.” Trên thực tế, trẻ chưa biết gì hết. Đây là lúc bạn dễ đi chệch hướng nhất trong vai trò là người tư vấn. Bạn nhìn thấy kì thi khó nhằn phía trước, và bạn muốn giúp trẻ không thi trượt. Nhưng một khi bạn đề nghị giúp đỡ và trẻ nói dứt khoát rằng trẻ không muốn, bạn không thể nào thực sự chỉ ra cho trẻ biết rằng trẻ chưa đủ khả năng, và bạn cũng không nên làm như vậy. Rõ ràng, đứa trẻ này sẽ thất bại thảm hại… Nhưng sau đó trẻ sẽ tiếp tục, và nếu bạn có thể giúp trẻ tiếp nhận thông điệp rằng thất bại chỉ là một cú vấp ngã tạm thời để học hỏi, trẻ sẽ học được một bài học quý giá.
Giai đoạn 2: Chưa đủ năng lực và ý thức được điều này. Đứa trẻ ở giai đoạn này nghĩ: “Chà. Toán khó hơn mình tưởng. Chắc là mình cần phải học toán thôi.” Trẻ vẫn chưa thực sự hiểu rõ kiến thức, nhưng trẻ biết điều đó. Thông thường, trẻ sẽ thực hiện bước tiếp theo, và như các bạn biết, đó chính là học.
Giai đoạn 3: Thành thạo và ý thức được điều này. Trẻ nghĩ “Mình đã học toán rất chăm chỉ. Mình đã hiểu bài, mình sẽ thi tốt.” Và đúng như vậy. Chúng ta vui mừng khi trẻ đến được giai đoạn này. Đây là điều đáng mơ ước, thưa quý vị.
Giai đoạn 4: Thành thạo mà không ý thức được điều này. Khoảng hai mươi năm sau, đứa trẻ đó giờ đã trở thành cha mẹ, đã làm toán trong thời gian dài, đến nỗi chẳng phải nghĩ ngợi nhiều về nó. Người đó không thể hiểu nổi tại sao con gái mình lại phải khổ sở với một thứ tự nhiên như hơi thở đối với ông. (Nhân tiện, đây là lí do tại sao những đứa trẻ lớn hơn thường làm tốt vai trò dạy kèm hơn các bậc phụ huynh. Những trẻ lớn hơn học bảng cửu chương chưa quá lâu, nên trẻ còn nhớ khá rõ các bước phải làm trước khi thực sự hiểu ra). Bọn trẻ có thể thành thạo một cách vô thức trong một số lĩnh vực – ví dụ như đọc hay thắt dây giày – khi còn ở nhà. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, bạn chẳng cần phải lo lắng về Giai đoạn 4, ngoại trừ việc cần chú ý nếu chính bạn rơi vào hoàn cảnh này.
Chúng ta mong muốn bọn trẻ đạt tới Giai đoạn 3, thành thạo và ý thức được, nhưng điều đó không thể xảy ra nếu chúng ta không để cho trẻ tự mình tốt nghiệp các giai đoạn khác. Bạn không nên vắng mặt trong tiến trình này, bạn nên đứng sau con, hỗ trợ và chỉ dẫn con.
Đối với một số trẻ, cha mẹ chỉ cần lùi lại phía sau một bước là đủ, giống như cha mẹ Jonah đã làm. Một khi trẻ có quyền kiểm soát bài tập về nhà của mình, trẻ sẽ làm rất tốt. Rất nhiều trẻ sẽ hơi bối rối lúc đầu, giống như Jonah. Mối quan hệ hằng ngày giữa cậu với cha mẹ đã cải thiện, nhưng kết quả học tập của cậu vẫn tiếp tục không tốt thêm vài tháng nữa. Một hôm, Jonah gặp cố vấn học tập của mình, cậu được cho hay rằng có thể cậu sẽ phải học thêm một năm trung học, vì cậu không đạt các tiêu chuẩn để tốt nghiệp. Việc này khiến Jonah phải chú ý. Điều đó đồng nghĩa với việc cậu sẽ không tốt nghiệp cùng với các bạn. Cậu bắt đầu để tâm hơn tới việc học, và nhờ cha mẹ giúp đỡ. Ngoài các buổi học ở trường, cậu đã đi học thêm buổi tối trong suốt hai năm để được tốt nghiệp đúng hạn. Cậu tiếp tục thành công ở trường đại đọc với chuyên ngành tâm lí học, một điều mà cha mẹ cậu trước đó hầu như không tin là có thể xảy ra.
Trong câu chuyện của Jonah, có một bài học cần rút ra. Giáo viên có thể giảng dạy, huấn luyện viên có thể huấn luyện, cố vấn học tập có thể đưa ra các yêu cầu để tốt nghiệp, nhưng chỉ có một việc duy nhất cha mẹ có thể làm: yêu thương con vô điều kiện và đem đến cho con một căn cứ an toàn khi ở nhà. Đối với những trẻ bị căng thẳng trong học tập ở trường hay bất cứ khía cạnh nào trong cuộc sống, nhà nên là thiên đường an toàn, một nơi để nghỉ ngơi và hồi phục. Cảm giác được yêu thương sâu sắc, ngay cả khi trẻ đang phải chật vật cố gắng, sẽ nuôi dưỡng sự kiên cường. Tranh cãi về những ngày phải nộp bài, hay việc làm mất phiếu bài tập, sẽ khiến những căng thẳng vốn ở trường học phát sinh ngay khi ở nhà. Vậy nên, thay vì cãi cọ, mắng mỏ, hay liên tục nhắc nhở, chúng tôi khuyên các bậc phụ huynh hãy luôn tự nhủ câu “thần chú”: “Mình yêu con rất nhiều nên sẽ không gây chiến với con về bài tập về nhà.”
Hãy nghĩ đến bọn trẻ đang chơi trò đuổi bắt, và la to “Tớ đã vào căn cứ”, để chứng tỏ rằng mình đang ở chỗ an toàn, để nghỉ ngơi và sẽ quay lại sau. Khi gia đình là một căn cứ an toàn, trẻ em và trẻ vị thành niên cảm thấy được tự do hơn để khám phá các khả năng bên ngoài phạm vi gia đình, theo những cách lành mạnh. Chúng sẽ quay về theo định kì để tìm kiếm sự yên tâm và cảm giác an toàn. Nếu thiếu vắng cảm giác an toàn, trẻ vị thành nhiên có xu hướng đi theo hai con đường khác nhau: thu mình lại, hoặc rời khỏi nhà bất cứ khi nào có thể, vô cùng mong muốn tạo ra một nơi an toàn ở đâu đó. Mọi việc đều có lí lẽ tự nhiên của nó: nếu ở nhà quá căng thẳng, trẻ dễ thực hiện các hành vi nguy hiểm.
Gần đây, một phụ huynh nói với chúng tôi rằng quyết định không gây chiến với con nữa đã làm “nhiệt độ trong nhà giảm đi 20 độ”. Bất kì cuộc chiến nào cũng cần hai phía, nếu bạn quyết định nhún nhường thì chẳng có cuộc chiến nào kéo dài. Theo lời của một bác sĩ chuyên khoa tâm thần nổi tiếng: “Quyết định lựa chọn không tham chiến với con, bạn sẽ lấy được kíp nổ từ súng của chúng.”5
Trong nhiều năm, nhiều bậc cha mẹ đã phản hồi cho chúng tôi rằng, ý tưởng về căn cứ an toàn và thông điệp “Cha mẹ yêu con rất nhiều nên sẽ không gây chiến với con về bài tập về nhà” đã tạo ra những thay đổi căn bản trong cuộc sống gia đình họ.
Trong những tháng đầu tiên khi làm bác sĩ tâm lí học thần kinh, tôi gặp hai đứa trẻ mắc chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) trong cùng một tuần. Một bé gái học lớp Hai rất sáng dạ nhưng bé không ra ngoài chơi trong suốt những ngày đi học nếu như chưa làm xong bài tập về nhà. Cậu kia là sinh viên đại học năm nhất, đang học kì thứ hai, cậu đã thi trượt ba trong số bốn môn học của kì một, chủ yếu vì cậu không cố gắng và cuối cùng đã không tới lớp nữa (cha mẹ cậu không hề hay biết cho đến khi cậu bị đưa vào diện thử thách học vấn)(1). Cuối tháng Ba, khi tôi gặp cậu, cha mẹ cậu kể rằng, báo cáo cho thấy cậu đang học tập tốt hơn, tham gia đầy đủ các buổi học trên lớp, tới thư viện mỗi tối, và tìm các giáo sư để nhờ giúp đỡ. Khi tôi nói chuyện riêng với cậu, tôi phát hiện ra rằng thực ra đã ba tuần rồi cậu không đi học và có khả năng sẽ trượt hết các môn học.
(1) Bản gốc tác giả dùng từ Academic probation. Academic probation hiểu đơn giản là khoảng thời gian mà những sinh viên không đạt điểm GPA tối thiểu hoặc không đạt yêu cầu về số lượng tín chỉ, phải cải thiện vị trí xếp hạng học tập nhằm đáp ứng tiêu chí của trường đang theo học. (Tham khảo accreditedschoolonline.org)
Nói chuyện thêm với cậu bé và cha mẹ cậu, tôi nhận ra rằng, giống như rất nhiều trẻ mắc chứng ADHD, cậu đã cần được dạy kèm và giám sát liên tục trong suốt quá trình học tập và cậu thường kháng cự việc học cho đến khi có ai đó – cha mẹ, giáo viên, gia sư, hay người hướng dẫn – đôn đốc cậu. Cậu đã tiêu tốn rất nhiều năng lượng tuyệt vời của độ tuổi thanh thiếu niên vào việc kháng cự khi người khác cố ép buộc cậu làm điều gì đó cậu không muốn, hay nói cách khác, chống lại những thứ có thể đem lại lợi ích tốt nhất cho bản thân cậu.
Sự khác biệt trong thái độ và thành tích của hai đứa trẻ này không nằm ở sự trưởng thành về mặt não bộ hay cảm xúc (bé gái tám tuổi và chàng trai 19 tuổi). Và mặc dù ADHD đã khiến chúng phải tới gặp tôi, vấn đề lại không nằm ở đó. Vấn đề thực chất nằm ở ý thức nội tại: ai là người chịu trách nhiệm cho việc gì. Bé gái đã nhìn nhận chính xác rằng bài tập về nhà là trách nhiệm của mình và sẵn sàng làm nó, việc này tăng cường ý thức tự chủ và quyền làm chủ của cô bé. Cậu con trai thì lúc nào cũng xem bài tập về nhà là một thứ gì đó bị ép buộc, và cậu chẳng cần phải nghĩ ngợi gì về nó, vì rốt cuộc thì cũng sẽ có người đôn đốc cậu làm. Cách tư duy này không giúp cậu thành công trong học tập ở bậc đại học. Cậu có ý thức tự kiểm soát quá thấp đối với việc học hành của bản thân, kèm theo đó là nhiều nỗi lo âu, chứng khó ngủ và chứng trầm cảm đang dần hình thành. Cuối cùng thì cậu cũng đi đúng hướng trở lại. Nhưng cậu cần thời gian và phải tạm nghỉ học cho đến khi cậu xác định rằng mình đã sẵn sàng thử lại.
— Bill