• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nuôi dạy đứa trẻ tự chủ
  3. Trang 27

Sự lo âu nhỏ giọt (1)

(1) Bản gốc tác giả dùng từ trickle-down anxiety. Trong kinh tế có thuật ngữ trickle- down theory – chính sách kinh tế nhỏ giọt, cho rằng việc tạo điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp lớn và các tầng lớp giàu có sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, lợi ích có được từ sự phát triển này sẽ được nhỏ giọt xuống cho cả những tầng lớp thấp hơn trong xã hội. Ở đây, ý tác giả muốn nói rằng nếu cha mẹ lo lắng, sự lo lắng đó cũng sẽ truyền sang con trẻ.

Tôi bắt đầu bằng một tin xấu trước: Chứng lo âu thường tồn tại trong các gia đình. Có tới 50% con cái của những bố mẹ hay lo lắng mắc chứng rối loạn lo âu. Có thể bạn sẽ nghĩ, nếu mình bị rối loạn lo âu, cho dù được chữa trị, con cái mình cũng bị ảnh hưởng.

Điều này không hẳn đúng. Trẻ em đến với thế giới này với những mức độ nhạy cảm khác nhau đối với chứng lo âu. Một số trẻ chẳng hề bị ảnh hưởng, và các nhà khoa học gọi chúng là “trẻ bồ công anh”. Giống như hoa bồ công anh, chúng ít bị ảnh hưởng từ môi trường. Những đứa trẻ khác được gọi là “trẻ phong lan”, có mức độ nhạy cảm sinh học vô cùng cao đối với môi trường xung quanh. Chúng đặc biệt nhạy cảm với cách nuôi dạy của cha mẹ. Trẻ phát triển rực rỡ khi được nuôi dạy theo phong cách điềm tĩnh và mang tính dưỡng dục, và trẻ sẽ chật vật với cách nuôi dạy đầy lo lắng của cha mẹ. Nuôi dạy “trẻ phong lan” cũng có cả những mặt tích cực và tiêu cực. Mặc dù những đứa trẻ nhạy cảm thường dễ bị tổn thương hơn trong môi trường tiêu cực, chúng cũng có thể phát triển rất nhanh trong môi trường bình yên và giàu tình yêu thương.3

Một trong những cách chúng ta lan truyền sự lo lắng sang con cái là thông qua cơ chế di truyền biểu sinh, một lĩnh vực mới mà hiện nay mới hiểu được phần nào. Di truyền biểu sinh nói về các cách thức mà trải nghiệm tác động đến gen bằng cách “bật hay tắt” chức năng của một số gen cụ thể. Do vậy mặc dù trẻ có thể được sinh ra với một khuynh hướng di truyền nào đó, nhưng chính các trải nghiệm sẽ “bật” các gen nhất định đảm nhận việc kích hoạt sự trầm cảm hay lo âu.

Chuyển các gen gây rắc rối này sang chế độ “bật” vô cùng dễ dàng, và nó có thể xảy ra ít nhất là theo hai cách:

1. Căng thẳng lây lan

Có một số người cứ có mặt là khiến bạn lo lắng. Với người lớn, đó có thể là một ông sếp độc đoán, một người mẹ chồng cầu toàn, hay một đồng nghiệp luôn luôn trong trạng thái hoảng hốt. Với trẻ em hay thanh thiếu niên, đó có thể là một giáo viên nghiêm khắc, một đứa bạn luôn lo lắng với mọi bài tập cuối khóa, hay là chính bạn.

Căng thẳng dễ lây nhiễm, giống như một loại vi-rút cảm xúc. Nghe có vẻ điên khùng, nhưng có những chứng cứ khá thuyết phục cho hiện tượng mà các nhà khoa học gọi là “sự lây lan căng thẳng”. Cũng giống như cảm lạnh – hay dịch bệnh – căng thẳng cũng lan truyền trong một bộ phận dân cư nhất định, gây ảnh hưởng và lây nhiễm cho bất cứ ai nó gặp được trên đường phát tán. Ai chưa từng làm việc trong một văn phòng đầy căng thẳng và nhận thấy những tác động tiêu cực đến từ chỉ một người bị căng thẳng mãn tính trong phòng? Chúng ta đều biết rằng một thành viên trong gia đình có thể lây lan sự lo lắng trong nhà cho đến khi tất cả mọi người đều cảm thấy lo lắng.4

Cái được gọi là căng thẳng lây lan có thể tồn tại lâu hơn cả căng thẳng xuất phát từ chính bạn. Khi dược xem xét qua lăng kính kiểm soát, điều này hoàn toàn hợp lí. Căng thẳng thường xảy ra do cảm giác có ít quyền kiểm soát đối với các sự việc hoặc môi trường chúng ta đang sống, và càng có ít quyền kiểm soát, chúng ta càng cảm thấy căng thẳng. Nếu chị bạn nghĩ nốt ruồi trên cánh tay chị ấy có thể là do ung thư, bạn cảm thấy lo lắng cho chị ấy là chính đáng. Nhưng việc bạn không thể làm là ép chị ấy đi đến bác sĩ da liễu và làm sinh thiết để trấn an nỗi sợ hãi của bạn. Sự căng thẳng của chị ấy, tuy khá lớn, nhưng ít nhất là vẫn phần nào nằm trong tầm kiểm soát của chị ấy. Nhưng bạn thì không thể làm gì để giảm nhẹ sự căng thẳng của riêng bạn về cái nốt ruồi ấy.

Từ khi còn trong bụng mẹ, trẻ nhỏ đã bị ảnh hưởng bởi môi trường trong bụng và nhạy cảm với sự căng thẳng của chúng ta. Từ đó và trong suốt những năm đầu đời, nếu cha mẹ của trẻ rất căng thẳng, gen của trẻ cũng bị ảnh hưởng - bao gồm cả các gen liên quan đến việc sản sinh insulin và phát triển não bộ. Căng thẳng ảnh hưởng đến biểu hiện gen(1) của thai nhi và trẻ nhỏ thông qua một quá trình gọi là methyl hóa. Một loại chất nhất định (được gọi là nhóm methyl) “khóa” gen được cho là thực hiện chức năng tắt phản hồi căng thẳng đang ở chế độ “bật”.5 Biểu hiện gen có thể tiếp tục thay đổi trong thời kì vị thành niên.6

(1) Biểu hiện gen (gene expression) chỉ mọi quá trình liên quan đến việc chuyển đổi thông tin di truyền chứa trong gen để chuyển thành các axít amin.

Dù căng thẳng khi ở trong tử cung và trong năm đầu đời có tác động mang tính quyết định nhất đối với bộ não đang phát triển, các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng căng thẳng lây lan cũng có ảnh hưởng. Chẳng hạn, khi bố mẹ lo lắng về môn toán, con cái họ có nhiều khả năng cũng sẽ lo lắng về môn toán, nhưng chỉ khi các bậc cha mẹ lo lắng này thường xuyên giúp con làm bài tập về nhà.7 Nói cách khác, nếu bạn lo lắng về môn toán, có lẽ trẻ sẽ cảm thấy tốt hơn nếu bạn không ngỏ lời giúp đỡ trẻ. Điều ngược lại cũng đúng. Khi đứa trẻ buồn bã, hạch hạnh nhân của bạn phản ứng, việc đó làm cho trẻ thậm chí còn khó bình tĩnh hơn. Đây là lí do tại sao rất nhiều phụ huynh thấy mình, trớ trêu và hài hước thay, giận dữ la mắng con vì chúng mất bình tĩnh.

Vậy việc này xảy ra như thế nào? Vi-rút lo lắng này “lây nhiễm” ở đâu và như thế nào?

Đầu tiên, như chúng ta đã nói ở Chương 1, hạch hạnh nhân cảm nhận được mối đe dọa và tiếp nhận sự lo lắng, sợ hãi, tức giận và bực bội ở người khác. Nó thậm chí còn tiếp nhận nỗi sợ hãi và lo lắng qua mùi mồ hôi của người đang căng thẳng. Thứ hai, vùng vỏ não trước trán, vùng Phi công, bao gồm các tế bào thần kinh gương. Đúng như tên gọi, tế bào thần kinh gương dường như bắt chước những gì một người đang nhìn thấy, đó là lí do tại sao chúng đóng vai trò quan trọng đối với những cảm xúc như sự đồng cảm. (Ở những người mắc chứng tự kỷ gặp khó khăn trong việc bắt chước người khác, những tế bào thần kinh này hoạt động không bình thường.) Những tế bào thần kinh gương này giúp trẻ học thông qua quan sát, nhưng chúng cũng khiến trẻ tiếp nhận sự lo lắng của cha mẹ. Chúng sẽ phản ánh đúng những gì chúng nhìn thấy, quá trình này bắt đầu từ khi còn là trẻ sơ sinh. Khi cha mẹ của những đứa trẻ sơ sinh căng thẳng, trẻ sẽ khóc và quấy hơn so với khi cha mẹ cảm thấy bình tĩnh và tự tin.

Nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể che giấu sự lo lắng của bạn với con, bạn đang tự lừa dối bản thân. Nhà tâm lí học Paul Ekman đã dành cả đời mình để xác định và lập danh mục hàng nghìn biểu cảm khác nhau trên khuôn mặt của chúng ta; và dù có nhiều biểu cảm chúng ta cố ý thể hiện để cho người khác thấy cảm xúc của mình, nhưng chúng ta cũng có một hệ thống biểu cảm vô tình báo hiệu cảm xúc của chúng ta, cho dù chúng ta có muốn thể hiện hay không. Trong một cuộc phỏng vấn với Malcolm Gladwell, Ekman giải thích: “Chắc bạn đã từng trải nghiệm việc có ai đó bình luận về biểu cảm của bạn, còn bạn thậm chí chẳng biết rằng mình có biểu cảm đó… Ai đó nói với bạn: “‘Bạn đang buồn về chuyện gì?’, ‘Tại sao bạn lại nhếch mép?’” Ekman chỉ ra điều hiển nhiên là bạn có thể nghe giọng nói của mình, nhưng bạn lại không thể nhìn thấy khuôn mặt của chính bạn. Ông nói, “Nếu chúng ta biết những gì thể hiện trên khuôn mặt mình, chúng ta sẽ che giấu nó tốt hơn.”8

Trẻ em nhìn thấy những cảm xúc của bạn, ngay cả khi bạn không muốn. Sau đó, trẻ phản chiếu những cảm xúc đó, ngay cả khi bạn không nghĩ rằng mình đang thể hiện ra, và trẻ cũng bắt đầu có những cảm xúc đó. Một trong những lí do lí giải cho điều này là trẻ thường đặc biệt không giỏi trong việc lí giải những gì trẻ nhìn thấy một cách chính xác. Vì vậy, một người trưởng thành có thể trải qua một buổi tối bên cạnh ông chồng đang khó ở và nghĩ, “Anh ấy gắt gỏng, nhưng không phải do mình. Mình nghĩ rằng mình sẽ mặc kệ anh ấy.” Trong khi đó, một đứa trẻ có thể sẽ nghĩ, “Bố đang khó chịu. Chắc là mình đã làm sai điều gì đó. Bố đang giận mình.” Nếu trẻ bị căng thẳng, năng lực lí giải vốn chưa trưởng thành đó sẽ ngừng hoạt động. Trẻ em là những quan sát viên tuyệt vời, nhưng lại là những người phiên dịch không giỏi. Chẳng hạn, con gái Katie của Ned luôn cho rằng những người đang tức giận ở gần cô bé đang tức giận với chính cô bé. Cô bé chính là một đứa trẻ phong lan điển hình.

Phần lớn sự trưởng thành được đánh dấu bằng sự nâng cao của năng lực tự điều chỉnh cảm xúc. Đó là khi vùng vỏ não trước trán có ý thức về những gì bạn đang làm và chịu trách nhiệm. Bạn có thể ức chế. Nhưng khi một đứa trẻ cảm nhận được mối đe dọa, ví dụ, khi một người cha căng thẳng hoặc gắt gỏng, vì vùng não Phi công của trẻ chưa phát triển đầy đủ nên trẻ không thể nói, “Không có vấn đề gì to tát. Những đoạn đường xóc rồi cũng sẽ qua, và chúng ta sẽ bay ở một độ cao khác trong lúc chờ đợi.” Thay vào đó, đứa trẻ hoảng hốt. Hạch hạnh nhân của trẻ lên nắm quyền. Và trước khi bạn biết điều đó, trẻ cũng đã trở nên căng thẳng và gắt gỏng. Nếu điều này xảy ra quá nhiều lần, hạch hạnh nhân của trẻ sẽ trở nên lớn hơn và thậm chí còn phản ứng nhiều hơn. Theo cách nói của Robert Sapolsky, nếu căng thẳng tồn tại trong một thời gian dài, hạch hạnh nhân sẽ trở nên “kích động” hơn.9

Bây giờ hãy tưởng tượng sự bất hòa nhận thức xảy ra khi chúng ta có thể nhận thấy lời nói của một người không thống nhất với cảm xúc của người đó. Là cha mẹ, nếu chúng ta hoàn toàn để tâm, con cái không thể nói qua quýt với ta rằng “Con ổn” trong khi thực tế không phải vậy. Vì vậy, chúng ta cũng nên cẩn thận khi nói với trẻ một đằng trong khi cảm xúc của chúng ta một nẻo. Người ta cũng lo ngại về việc nói với trẻ em quá nhiều và tạo gánh nặng cho trẻ bằng những cảm xúc mà trẻ chưa sẵn sàng để xử lí. Nhưng cho dù bạn nói hay không nói bất cứ điều gì với con, hãy chú ý đến khả năng cảm nhận của con về những cảm xúc của bạn, và chú ý đến cả sự sợ hãi, cảm giác không chắc chắn và sự hoài nghi của chính con. Khi không được giải thích hoặc kể lại sự việc, con người có xu hướng tự tạo ra những thứ đó cho chính mình, và thường thì các kịch bản mà trẻ tự tạo ra sẽ đáng lo ngại hơn sự thật.

Ned từng làm việc với một gia đình có người mẹ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư. Cha mẹ đó muốn Ned biết chuyện, bởi vì cô con gái Ayse 16 tuổi của họ - người có tính khí hay lo lắng, sẽ nhận được ít sự giúp đỡ hơn bình thường. Người mẹ cần phải nhập viện điều trị, còn người bố sẽ bận rộn chăm vợ, chăm sóc em gái của Ayse và thay vợ đảm nhiệm những vai trò khác mà vợ tạm thời phải gác lại. Họ nói, “Nhưng đừng nói với Ayse. Chúng tôi không muốn con bé lo lắng.” Ned chần chừ một lúc trước khi tiếp tục và bày tỏ mối lo ngại rằng Ayse sẽ nhận ra sự lo lắng của họ. Cô bé đã dành cả đời để nhận biết biểu cảm trên khuôn mặt họ. Đó là điều cô bé quá rành rọt. Nếu có gì đó không ổn, làm sao cô bé không nhận ra cơ chứ? Ayse sẽ nghĩ gì nếu cô bé cảm thấy có điều gì đó không ổn nhưng bố mẹ lại nói rằng mọi thứ đều tốt đẹp. Liệu có phải là bố mẹ đang chờ ly hôn? Hay bố mẹ buồn về mình? Thật khó nói. Cuối cùng, cha mẹ của Ayse đã nói cho cô bé biết về căn bệnh. Biết được những việc đang diễn ra và hiểu quá trình điều trị đã giúp Ayse giảm bớt cảm giác không chắc chắn và hoài nghi. Điều đó cũng cho phép Ayse làm một vài việc. Cô bé đã giúp bố mẹ bằng cách làm thêm một vài việc vặt và lái xe đưa em gái đi đá bóng khi bố mẹ không thể. Căn bệnh ung thư vẫn đáng sợ, và dù nó đã thuyên giảm, nó sẽ luôn là một phần trong cuộc sống của họ, một điều không chắc chắn mà họ không bao giờ có thể loại bỏ. Nhưng việc được biết sự thật và thành thật đã giúp tất cả gia đình họ. Nhờ việc không tạo ra hai sự thật – một sự thật cha mẹ giữ cho mình và một sự thật dành cho con – cả gia đình đều đồng bộ hóa, trở lại mức nơ ron phản chiếu.

Khi con gái tôi mới hơn một tuổi, chúng tôi đi thăm bạn bè ở Chicago. Khi quay về, chúng tôi bị mắc kẹt tại một trong những điểm dừng chân dài trên con đường nhựa như rất nhiều người đi du lịch mùa hè khác. Con gái tôi, giống như chúng tôi, chẳng hề vui vẻ gì với tình cảnh đó và thể hiện sự khó chịu ra mặt giống như những trẻ nhỏ khác, điều đó gây thêm kha khá phiền toái cho tôi hay là một cặp đôi khác trong số một trăm con người “may mắn” đang chờ thêm hai tiếng rưỡi nữa trong khi thời tiết ngày càng nóng lên. Tôi nhớ nhất là mình đã rất căng thẳng vì con bé quá cáu kỉnh và tôi cũng thấy rất xấu hổ vì mình thuộc “loại gia đình” không thể dỗ con. Tôi muốn dỗ con vô cùng nhưng tôi không làm được, vì bản thân tôi cũng quá căng thẳng. Tôi đã không đem đến cho bé sự hiện diện bình thản. Trên máy bay, người ta nói với bạn, “Trong trường hợp mất áp suất trong cabin máy bay, hãy đeo mặt nạ oxy cho bạn trước khi hỗ trợ trẻ em.” Điều đó cũng tương tự với căng thẳng: Trong trường hợp áp lực (từ trường học, hoặc từ cuộc sống) gia tăng, hãy xử lí sự căng thẳng của bạn trước khi cố gắng giúp đỡ người khác.

- Ned

2. Hành vi

Cách thứ hai mà bạn có thể vô tình “bật” gen lo lắng của con là thông qua hành vi của bạn. Hãy giả sử sự lo lắng của bạn liên quan nhiều đến hoàn cảnh xã hội (đây là dạng lo lắng thường thấy nhất), có nghĩa là bạn trải nghiệm nỗi sợ mãnh liệt là bị người khác soi xét và đánh giá tiêu cực trong các tình huống xã hội. Một nghiên cứu của Đại học Johns Hopkins cho thấy cha mẹ mắc chứng lo âu này thường gặp khó khăn trong việc thể hiện tình cảm và sự ấm áp, thường phán xét nhiều hơn, và thường thể hiện sự hoài nghi về khả năng của con cái họ nhiều hơn những cha mẹ ít lo lắng. Họ thường có xu hướng kiểm soát quá mức và ít khi cho trẻ sự tự chủ - những hành vi này được cho là làm gia tăng sự lo lắng ở trẻ.10

Nếu tất cả những điều này nghe có vẻ quen thuộc thì không phải là không thể giải quyết. Bởi vì hành vi có thể kích hoạt các gen không mong muốn, rõ ràng chúng ta có thể ngăn việc kích hoạt các gen đó bằng cách tránh một số hành vi nhất định. Các nhà nghiên cứu tại Đại học Johns Hopkins đã tiến hành một nghiên cứu nhằm xác định những đứa trẻ có nguy cơ cao mắc chứng lo âu. Một nhóm được tham gia chương trình can thiệp trị liệu dành cho gia đình, tập trung vào việc giảm bớt các yếu tố gây ra sự lo âu ở trẻ và cha mẹ, chẳng hạn như hình mẫu sự lo âu ở cha mẹ. Chỉ 9% trẻ em trong nhóm can thiệp mắc chứng rối loạn lo âu trong năm tiếp theo, so với tỉ lệ 21% trẻ em trong các gia đình chỉ được cung cấp các hướng dẫn bằng văn bản về việc kiểm soát sự lo âu, và 30% trẻ em trong các gia đình không nhận được sự can thiệp trị liệu hoặc hướng dẫn bằng văn bản. Một nghiên cứu vào năm 2016 cũng cho kết quả tương tự. Tuy vậy lần này chỉ có 5% trẻ em trong nhóm can thiệp mắc chứng rối loạn lo âu, so với 31% trẻ em thuộc nhóm đối chứng.11

Nếu bạn mắc chứng lo âu không kiểm soát được, hãy cẩn thận. Vì lo âu nên bạn sẽ thấy khó khăn hơn trong việc từ bỏ quyền kiểm soát đối với con, điều này rất có thể sẽ dẫn đến sự nổi loạn của trẻ, khiến bạn cảm thấy càng lo lắng hơn và cần phải kiểm soát nhiều hơn… và chính việc đó sẽ làm trẻ nổi loạn hơn nữa. Bạn có nhận thấy vòng lặp phản hồi tiêu cực ở đây không? Mặc dù trong cuốn sách này chúng tôi có cung cấp một số công cụ nhưng chúng tôi vẫn khuyến khích các bậc cha mẹ mắc chứng lo âu tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa. Có nhiều cách tái rèn luyện tâm trí để tránh các vòng lặp phản hồi tiêu cực này và chuyển hướng các nguồn có nguy cơ gây ra chứng lo âu.

Phần thông tin khoa học trong chương trình của chúng tôi đến đây là hết. Ngoài ra, còn có một phần về nhận thức chung. Khi cha mẹ lo lắng về con cái của họ, việc đó làm hao mòn sự tự tin của trẻ. Bill gần đây đã đánh giá Robert, một cậu bé 16 tuổi mắc chứng rối loạn lo âu xã hội. Bill hỏi Robert về đời sống xã hội của cậu, và cậu đáp lại bằng việc kể cho Bill nghe về những điều cậu thích làm với bạn bè. Cậu cũng nói rằng thông thường cậu cũng thích ở cùng gia đình, nhưng lại nhanh chóng nói thêm rằng đôi khi cậu muốn “tránh xa” họ:

ROBERT: Mẹ luôn lo lắng cho em. Bà luôn luôn lo lắng rằng em sẽ làm điều gì đó không tốt. Có một đêm, em không nói với mẹ là mình đang ở đâu và bà đã thực sự lo lắng. Bố thì chỉ nói “Chơi vui vẻ và đừng để bị bắt.”

BILL: Bà ấy đã lo lắng về em như vậy bao lâu rồi?

ROBERT: Cũng đã một thời gian. Em không để ý lắm cho tới năm vừa rồi khi em cố giữ khoảng cách với bà một chút. Bà nói với em rằng khi em còn nhỏ, bà đã đi ngang qua lớp học của em để đảm bảo rằng em chơi hòa đồng với những đứa trẻ khác.

BILL: Chuyện đó xảy ra khi nào vậy?

ROBERT: Lớp Bốn đến lớp Sáu.

BILL: Em đã phản ứng thế nào khi bà ấy nói vậy?

ROBERT: [Nhún vai] Cho dù em e dè và có thể không phải lúc nào cũng hòa đồng với những đứa trẻ khác, mẹ cũng không cần phải lo lắng cho em mọi lúc như vậy.

BILL: Em có cảm thấy mình có một mối quan hệ tốt với mẹ không?

ROBERT: Có ạ, vào những lúc bà ấy không kè kè ở bên.

Bill cũng lắng nghe ý kiến của các bậc cha mẹ về vấn đề này. Cha hoặc mẹ thường lặng lẽ khóc thầm khi nói tới các khó khăn của con cái, và họ nói rằng “Tôi chỉ muốn con có cảm nhận tốt về bản thân con.” Sau khi đưa khăn giấy và chờ đợi cảm xúc lắng xuống, Bill nói: “Thật khó để giúp Robert (hoặc Tim, hay Edward) có cảm nhận tốt về bản thân, nếu chúng ta lo lắng cho chúng đến phát ốm.” Điều này hoàn toàn dễ hiểu. Nếu chúng ta không thể chấp nhận con người thật của trẻ, làm thế nào chúng ta có thể mong đợi trẻ chấp nhận chính mình?

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 91
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 26
  • 27
  • 28
  • More pages
  • 91
  • Sau