Hiểu được cách thức động lực hoạt động trong não bộ và cơ thể của chúng ta sẽ hữu ích rất nhiều trong việc giúp bạn hiểu con mình. May mắn cho chúng ta, tâm lí học và khoa học thần kinh đều đồng thuận về cách thức “tạo” động lực, và thậm chí còn đưa ra cả công thức. Đây là các thành phần chính:
Lối tư duy thích hợp
Sự tự chủ, năng lực và cảm giác kết nối
Mức độ dopamine tối ưu
Dòng chảy
Tư duy nói lên tất cả
Công trình của nhà tâm lí học nổi tiếng Carol Dweck về động lực và tư duy có thể quen thuộc với bạn, vì nó được chú ý rất nhiều trong các lĩnh vực những năm qua. Bà cho rằng khi học sinh có “tư duy cố định”, các em thấy những sai lầm của mình đến từ việc thiếu khả năng, một cái gì đó các em cảm thấy bất lực trong việc thay đổi. Trái lại, khi học sinh có “tư duy phát triển”, các em tập trung vào nỗ lực của bản thân như một phương tiện để trở nên thành công hơn. Tư duy phát triển mang đến cho học sinh ý thức tự kiểm soát, vì các em tin rằng các em hoàn toàn có khả năng làm một việc gì đó, thực ra là bất kì việc gì, ngày càng tốt hơn. Các nghiên cứu của Dweck đã phát hiện ra rằng những học sinh có tư duy phát triển có xu hướng xem việc học tập là mục tiêu quan trọng hơn so với việc đạt điểm cao. Nói cách khác, động lực của các em xuất phát từ bên trong. Các em không phụ thuộc vào nhận định của người khác rằng mình xứng đáng hoặc thông minh. Thúc đẩy kiểu “tư duy phát triển” là một trong những cách tốt nhất để cải thiện ý thức tự kiểm soát của con, tăng cường sự phát triển cảm xúc, và hỗ trợ các thành tích trong học tập của trẻ.2
Để khuyến khích tư duy phát triển, Dweck khuyên bạn nên khen ngợi nỗ lực và các chiến thuật khác nhau mà con sử dụng để giải quyết vấn đề, thay vì khả năng có sẵn của con. Hãy nói những điều như “Sự tò mò của con rất thú vị” thay vì nói “Con thật thông minh”; “Bố thực sự ấn tượng với nỗ lực của con trong bài kiểm tra đó” thay vì “Số điểm tuyệt vời.” Theo Dweck, “sự tập trung vào nỗ lực xuất phát từ bên trong có thể giúp giải quyết cảm giác bất lực và đem lại thành công”.3 Tư duy phát triển là yếu tố quan trọng nhất của một đứa trẻ có động lực tự thân.
Tự quyết
Bởi vì động lực là một trọng tâm chính trong công việc của chúng tôi, chúng tôi đã nghiên cứu những quan điểm thấu đáo nhất về chủ đề này. Dweck là một trong những giáo viên tuyệt vời trong lĩnh vực này, và các nhà tâm lí học lỗi lạc Edward Deci và Richard Ryan cũng vậy. Deci và Ryan đã phát triển một trong những lí thuyết vững chắc nhất trong tâm lí học, gọi là thuyết tự quyết (SDT), cho rằng con người có ba nhu cầu cơ bản:
Ý thức tự chủ
Ý thức về năng lực
Cảm giác được kết nối
Họ cho rằng ý thức tự chủ là điều quan trọng nhất trong ba yếu tố để phát triển động lực nội sinh, vì vậy hãy bắt đầu từ đó. Theo thuyết tự quyết, cách tốt nhất để khuyến khích một đứa trẻ (hoặc người lớn) là hỗ trợ ý thức tự kiểm soát của họ. Hàng trăm nghiên cứu về trường học, gia đình và doanh nghiệp đã phát hiện ra rằng giải thích lí do tại sao một nhiệm vụ lại quan trọng, sau đó cho trẻ thực hiện nhiệm vụ đó với sự tự do cá nhân nhiều nhất có thể, sẽ kích thích động lực nhiều hơn so với phần thưởng hoặc hình phạt. Hiện nay chúng ta biết rằng nếu giáo viên tăng cường sự tự chủ ở học sinh, các em sẽ có động lực nội sinh và khát khao thử thách, nếu cha mẹ khuyến khích sự tự chủ và quyền làm chủ, con cái họ có nhiều khả năng sẽ khám phá các mối quan tâm của chúng và phát triển bản thân. Điều tốt nhất bạn có thể làm để giúp con phát triển động lực tự thân là cho trẻ quyền kiểm soát đối với những lựa chọn của mình nhiều nhất có thể, bao gồm việc hỏi xem trẻ muốn thành thạo và chịu trách nhiệm cho việc gì.4
Năng lực là mảnh ghép tiếp theo, và điều này có thể gây hiểu nhầm. Nhiều phụ huynh dồn hết sự tập trung vào một định nghĩa hẹp về năng lực, nghĩ rằng con trai hay con gái của họ vô cùng thành thạo trong môn toán, hoặc chơi bóng đá, do đó trẻ có rất nhiều động lực nội sinh. Những phụ huynh này tập trung quá nhiều vào khía cạnh thể hiện của năng lực, qua việc liên tục nhắc nhở hay lên kế hoạch, họ thực sự đã gây nguy hại cho việc đáp ứng hai nhu cầu còn lại, sự tự chủ và cảm giác kết nối. Hãy nghĩ đến thuyết tự quyết như một chiếc ghế đẩu ba chân. Một cái chân rất cao không thể khiến bạn ngồi cao hơn được, nó sẽ làm cho chiếc ghế đổ nhào.
Nhưng năng lực cũng quan trọng. Không ai trong chúng ta muốn làm một cái gì đó mà chúng ta cảm thấy mình luôn làm rất tệ. Nhưng như Dweck tiết lộ, năng lực thường gắn liền với cảm giác rằng mình có thể xử lí một tình huống nhiều hơn là thực sự giỏi làm việc gì đó. Đó là cảm giác mình có năng lực một cách có ý thức, chứ không phải có một chiếc cúp “Mình giỏi nhất” trên giá. Đó là thước đo thành tích bên trong chứ không phải bên ngoài. Hỗ trợ trẻ phát triển năng lực là công việc của chúng ta khi làm cha mẹ. “Con đã rất nỗ lực cho bài kiểm tra khoa học này. Bố tự hào về con kể cả khi con không đạt được điểm số mà con muốn. Bố tin cả con và bố đều biết rõ rằng con đang tiến bộ hơn và đang tiến gần hơn đến mục tiêu của mình.” Hãy nhớ rằng bạn không thể phát triển năng lực thay con, và bất kì nỗ lực nào nhằm mục đích đó sẽ chỉ làm suy yếu động lực của chính con trẻ.
Cuối cùng, cảm giác kết nối đề cập tới cảm giác khi được kết nối với những người khác, được quan tâm. Khi con bạn cảm thấy kết nối với giáo viên, bé sẽ muốn học tập chăm chỉ vì giáo viên đó. Khi Ned hỏi những học sinh mà anh dạy kèm về môn học yêu thích ở trường của các em trong năm học trước đó, anh luôn hỏi thêm một câu hỏi khác sau khi nhận được câu trả lời: “Em thích lớp học hay giáo viên?” Ít nhất trong một nửa số lần Ned hỏi, câu trả lời của học sinh là “Giáo viên. Cô ấy thực sự tuyệt vời.” Tương tự như vậy, khi con cái cảm thấy kết nối với bạn, khi bạn thể hiện tình yêu thương vô điều kiện, trẻ sẽ tự nhủ: “Bố mẹ quan tâm đến mình nhiều hơn so với điểm số của mình”, có khả năng cao là trẻ sẽ tiếp thu các giá trị của bạn. Thuyết tự quyết gọi đây là “sự điều chỉnh hợp nhất”. Đó là sự đồng nhất của trẻ với các giá trị và mục tiêu của những người chăm sóc và yêu trẻ vô điều kiện.
Nếu bạn có niềm tin vào giáo dục và nỗ lực, và muốn con cái của mình cũng như vậy, chúng tôi khuyên bạn không nên la mắng con mỗi lần con về nhà với điểm thấp. Mặc dù bạn có thể nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để truyền đạt các giá trị, nhưng việc đó thực sự phản tác dụng bởi vì nó thể hiện tình yêu thương có điều kiện. Rất có thể là trẻ đã rất buồn vì điểm kém rồi, nên hãy thể hiện sự cảm thông, “Mẹ biết điều này làm con buồn. Mẹ biết con đã học chăm chỉ. Mẹ rất sẵn lòng giúp con ôn tập kĩ hơn cho lần sau, nếu con muốn.” Lưu ý rằng phản ứng này là thông cảm (cảm giác kết nối). Bạn cũng đang nhắc nhở con rằng có nhiều cách để có kết quả tốt hơn vào lần tới (năng lực). Và bằng cách kết thúc câu bằng “nếu con muốn”, trẻ thấy trẻ nắm quyền kiểm soát, bạn là người tư vấn, chứ không phải người quản lý (sự tự chủ).
Dopamine: Sự hỗ trợ “tăng cường năng lượng”
Khoa học não bộ ủng hộ những gì các nhà tâm lí học đã tranh luận về động lực từ những năm 1970. Như những gì bạn có thể còn nhớ từ Chương 1, hệ thống phần thưởng của não bộ được dopamine tiếp thêm nhiên liệu, nó kích hoạt và cung cấp năng lượng cho não bộ. Khi điều gì đó thực sự thú vị xảy ra và đặc biệt là khi bạn chờ mong điều gì đó thực sự tuyệt vời xảy ra, lượng dopamine tăng lên. Điều này cũng xảy ra với động vật – hãy nghĩ đến phản ứng của một chú chó khi người chủ của nó đến lấy sợi dây xích. Nó biết sợi dây buộc ở đâu và điều đó có nghĩa là nó sắp được đi dạo. Nó đứng dậy và ngọ nguậy đầy phấn khích, sẵn sàng để ra ngoài. Thực tế, nó không thể đứng yên được. Chúng tôi muốn trẻ em được trải nghiệm trạng thái dopamine ở mức cao như thế này. Trong công việc, khi chúng ta thấy một việc gì đó nhàm chán, thông thường lượng dopamine ở vùng vỏ não trước trán thấp đến mức chúng ta chẳng có động lực để đứng lên, đi làm hay tiếp tục cố gắng. Tình trạng tương tự cũng xảy ra khi bản thân trẻ không có động lực để làm bài tập về nhà.
Trong nhiều năm, chúng tôi đã được nghe nhiều câu chuyện về những đứa trẻ như Savannah, được cha mẹ mô tả một cách đáng yêu là người trì hoãn tài năng nhất thế giới. “Savannah khiến chúng tôi bực bội trong suốt thời gian làm bài tập về nhà”, họ nói với Ned. “Con bé trì hoãn, và trì hoãn làm bài, cho dù chúng tôi có bảo con bao nhiêu lần là làm nhanh đi để còn làm điều gì đó thú vị hơn. Thật là bực bội vì chúng tôi biết con bé có thể làm được. Chỉ là nó lựa chọn không làm. Có nhiều lần giống như đêm qua, em trai đã hoàn thành bài tập lúc bảy giờ ba mươi còn Savannah thì đến bảy giờ bốn mươi lăm vẫn chưa bắt đầu làm bài. Em trai nó thực sự muốn đi ăn kem, vì vậy chúng tôi đã nói với Savannah rằng chúng tôi sẽ đến tiệm Ben & Jerry’s, con bé có thể đi cùng nếu hoàn thành bài tập của mình. Nó đã làm xong trước tám giờ. Con bé chỉ mất mười lăm phút để làm xong bài tập, nhưng đã chọn cách né tránh nó trong ba giờ.”
Nếu bạn nghĩ về vai trò của dopamine đối với động lực - và trong việc mong chờ các kết quả lý thú - những câu chuyện như thế này hoàn toàn dễ hiểu. Suy nghĩ làm bài tập về nhà không tạo ra đủ dopamine trong não của Savannah để khiến cô bé bắt tay vào làm. Ý nghĩ về một cây kem của tiệm Ben & Jerry đã khiến lượng dopamine của cô bé tăng đột biến (giống như tác dụng của Ritalin đối với trẻ em bị rối loạn tăng động giảm chú ý), cho phép cô bé tập trung vào một nhiệm vụ vốn không mấy thú vị và làm xong bài tập trong khoảng thời gian kỉ lục.
Gợi ý đi ăn kem có thể hữu ích trong thời gian ngắn, nhưng bạn không thể làm việc đó mỗi tối. Bên cạnh đó, chúng tôi đã nói rằng phần thưởng phản tác dụng đối với động lực nội sinh. Vậy làm thế nào để bạn giúp một đứa trẻ phát triển một hệ thống dopamine khỏe mạnh? Câu trả lời rất đơn giản: khuyến khích trẻ nỗ lực làm những gì chúng yêu thích.
Kiến tạo một bộ não đầy nội lực
Trước giai đoạn giữa những năm 1980, mọi người không nhận ra rằng não bộ có thể thay đổi. Chúng ta đã từng nghĩ rằng những gì bạn có khi sinh ra là tất cả những gì bạn có. Có một kiến thức tương đối mới rằng chúng ta có khả năng tạo ra những đường mòn thần kinh mới, và việc chúng ta tập trung sự chú ý vào đâu và như thế nào có thể tạo ra sự khác biệt có thể đo lường được trong cách mà não bộ phát triển.5
Khi trẻ cố gắng nỗ lực làm một việc gì đó mà trẻ yêu thích và cảm thấy thách thức, trẻ bước vào trạng thái được gọi là “dòng chảy”, khi thời gian trôi qua rất nhanh và trẻ dồn toàn bộ sự chú ý nhưng không hề bị căng thẳng. Khi bạn đang trong trạng thái dòng chảy, lượng chất dẫn truyền thần kinh nhất định trong não của bạn - bao gồm cả dopamine - tăng đột biến.6 Những chất dẫn truyền thần kinh này giống như các loại thuốc tăng cường hiệu suất cho não. Bạn suy nghĩ tốt hơn khi ở trong trạng thái dòng chảy, và bạn xử lí thông tin nhanh hơn. Để thực sự bước vào trạng thái dòng chảy, hoạt động cần phải mang tính thử thách vừa đủ để không bị nhàm chán, nhưng không quá khó đến mức tạo ra căng thẳng quá mức. Hãy nghĩ đến việc chơi tennis với một người không ở cùng cấp độ với mình. Quá nhàm chán. Nếu bạn đang chơi với một người giỏi hơn rất nhiều, thì nó giống như trừng phạt, chứ không hề vui vẻ. Một người chơi vừa tầm với bạn thì sao? Đó chính là khi bạn tìm thấy trạng thái dòng chảy của mình.
Vì vậy, khi bạn thấy một em bé tám tuổi tập trung cao độ vào việc xây dựng lâu đài bằng Lego, mím môi đầy tập trung, việc mà em bé này đang làm thực chất là giúp não bộ làm quen với việc được thôi thúc. Trẻ đang rèn luyện bộ não của mình để liên kết niềm hứng khởi mãnh liệt với sự tập trung cao độ, việc luyện tập và làm việc chăm chỉ. Cũng giống như việc thường xuyên đối mặt với căng thẳng ở mức độ cao có thể khiến một bộ não non trẻ phát triển theo cách không lành mạnh, việc tiếp xúc thường xuyên với trạng thái dòng chảy có thể kiến tạo một bộ não có động lực và tập trung.
Nhà nghiên cứu Reed Larson đã nghiên cứu sự phát triển động lực ở trẻ em và thanh thiếu niên, ông đã phát hiện ra trạng thái dòng chảy là một thứ vũ khí bí mật.7 Khi lí giải kết quả của các kết quả mà Larson thu được, nhà khoa học thần kinh vĩ đại Marian Diamond đã kết luận rằng, “khi ‘đắm chìm’ trong một trò chơi yêu thích, trẻ em cảm thấy phấn khích và quên đi những vấn đề của chúng. Động lực nội sinh cao đi kèm những cảm xúc đó là một hình thức củng cố đối với nỗ lực có định hướng, việc học tập và thành tựu vốn không thể đạt được một cách thành công như vậy bằng bất kì cách nào khác.”8 Hãy nghĩ về nó giống như kiểu đào tạo bổ trợ. Có thể những gì bạn cực kì muốn là một đứa trẻ có sức mạnh tâm trí và sức mạnh đôi chân để tham gia chạy marathon, nhưng chơi nhảy dây hoặc nhảy lò cò là cách tuyệt vời để đôi chân được chuẩn bị và sẵn sàng.
Cũng giống như trong các môn thể thao, việc rèn luyện trí óc diễn ra theo một tiến trình. Một đứa trẻ tám tuổi xây lâu đài bằng Lego đã từng là một đứa trẻ bốn tuổi chơi trò hóa trang. Chơi hóa trang cần có động lực nội sinh cao – trẻ thực sự muốn làm điều đó – nhưng sự chú ý ở mức thấp, bởi vì có thể chỉ trong chốc lát trẻ có thể chuyển sang chơi với búp bê Barbies. Khi đứa trẻ lớn hơn và tham gia vào các hoạt động có tính thử thách hơn hoặc có tính tổ chức cao hơn, trẻ sẽ tiến đến trạng thái động lực nội sinh cao và sự chú ý cao độ. Nói cách khác, đó là khi trẻ trải nghiệm trạng thái dòng chảy.9
Quá trình này đúng với một đứa trẻ tám tuổi, và nó cũng đúng với một đứa trẻ 15 tuổi đang phải chật vật với việc học tập nhưng đam mê trượt tuyết, vẽ vời hoặc chơi nhạc cụ. Cách tốt nhất để thúc đẩy trẻ làm những thứ bạn nghĩ là trẻ nên tập trung là hãy để trẻ dành thời gian cho những việc trẻ muốn.
Bill biết điều này từ góc độ khoa học, và cả góc độ cá nhân. Anh từng là một học sinh có điểm trung bình 2.8 thời trung học và chả hề quan tâm đến việc trở thành học sinh giỏi. Như chúng tôi đã đề cập trong Chương 2, hồi cấp hai anh ấy trở nên đam mê nhạc rock & roll, và lên cấp ba thì ban nhạc của anh ấy là điều quan trọng nhất trong thế giới của anh. Gần như đêm nào anh cũng dành hàng giờ liền để học các bài hát, tự học cấu trúc hợp âm, luyện tập nhạc cụ và hát – tất cả là do tình yêu của riêng anh dành cho âm nhạc và việc là thành viên của ban nhạc đã thúc đẩy anh. Anh ấy thường vào “phòng nhạc” của mình lúc bảy giờ tối, nói với bản thân rằng mình sẽ ngừng lúc tám giờ mười lăm phút để có thể hoàn thành ít nhất là một ít bài tập về nhà. Nhưng thường thì tám giờ mười lăm phút đối với anh ấy thực ra là chín giờ bốn mươi lăm phút, bởi vì anh ấy đang ở trong trạng thái dòng chảy. Điều mà sau này anh nhận ra là, khi còn là một thiếu niên, anh đã kiến tạo được một bộ não vô cùng quen thuộc với trạng thái dòng chảy và về sau bộ não này đã giúp anh tăng tốc như “diều gặp gió” khi gặp được ngành học – và sau này là sự nghiệp – khiến anh hứng thú.