• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nuôi dạy đứa trẻ tự chủ
  3. Trang 37

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 36
  • 37
  • 38
  • More pages
  • 91
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 36
  • 37
  • 38
  • More pages
  • 91
  • Sau

Tâm lang thang: Những lợi ích của việc mơ giữa ban ngày

Các nhà khoa học đã nghiên cứu về bộ não từ lâu và họ đã bị cuốn hút bởi câu hỏi bộ não sẽ làm gì khi nó tập trung vào một nhiệm vụ hoặc xử lí kích thích từ bên ngoài. Chỉ gần đây, họ mới chuyển sang xem xét một cách nghiêm túc những gì diễn ra trong phần thời gian còn lại. Vào giữa những năm 1990, nhà khoa học thần kinh Marcus Raichle nhận thấy rằng một số phần nhất định của bộ não sẫm màu lại khi chúng ta tập trung vào một nhiệm vụ hoặc mục tiêu. Năm 1997, ông và các đồng nghiệp của mình tại Đại học Washington đã cùng nhau lập nhóm và phân tích những phần này của bộ não và đặt cho chúng một cái tên: mạng chế độ mặc định (DMN). Mãi đến năm 2001, Raichle mới công bố một nghiên cứu cho thấy yếu tố khiến DMN sáng lên: một bộ não tỉnh táo, nhưng không tập trung vào một nhiệm vụ.2 Trong thập kỷ qua, Raichle đã dẫn đầu một làn sóng nghiên cứu mới cho thấy rằng thời gian nghỉ ngơi không tập trung kích hoạt mạng chế độ mặc định cực kỳ quan trọng đối với một bộ não khỏe mạnh.3

Mỗi khi chúng ta chớp mắt, mạng chế độ mặc định của chúng ta sẽ kích hoạt và các mạng lưới có ý thức của chúng ta nghỉ ngơi trong thời gian ngắn. Thậm chí chỉ cần nhắm mắt, hít một hơi thật sâu và thở ra có thể giúp tái tạo bộ não. Khi mạng chế độ mặc định của bạn hoạt động, bạn nghĩ về bản thân, về quá khứ và tương lai của bạn, và về các vấn đề cần giải quyết, tất cả đều quan trọng đối với việc phát triển nhận thức về bản thân. Bạn suy nghĩ về trải nghiệm và cảm xúc của người khác, một quá trình quan trọng đối với sự phát triển khả năng đồng cảm. Mạng chế độ mặc định là nơi diễn ra công việc cực kì quan trọng – đó là suy ngẫm về bản thân. Việc đó khiến bạn trở thành một con người biết suy nghĩ. Nó cho phép bạn sắp xếp những suy nghĩ của bản thân. Nó là nền tảng lí lẽ của bạn. Hãy tưởng tượng bạn cãi vã với một người bạn đã nói điều gì đó vô tâm. Trong nhịp sống hối hả của ngày hôm đó, bạn không có cơ hội nghĩ về điều đó, ngoài việc biết rằng điều đó thật khó chịu và bạn đang nổi điên. Rồi vào sáng hôm sau, trong khi tắm, bạn nghĩ rằng, thực ra chuyện đó không có gì to tát. Bạn tự hỏi tại sao cô ấy nói vậy? Có lẽ cô ấy đã có một ngày tồi tệ. Bạn thậm chí còn có thể hình dung những gì cô ấy nghĩ trong đầu. Mỗi khi bạn nghĩ lại tình huống đó, sự việc bớt nghiêm trọng đi một chút. Nhưng việc suy ngẫm lại một tình huống cần có thời gian, và nếu bạn không cho phép mình có thời gian nghỉ ngơi, bạn sẽ chỉ giữ mãi cơn giận mà không thể nhìn nhận ra những cách hành xử khác đối với tình huống đó. Nếu bộ não phát triển theo cách nó được sử dụng, chúng ta có thể phát triển sự hiểu biết về bản thân và về người khác bằng cách nào ngoại trừ việc suy nghĩ về bản thân và người khác cơ chứ?

Khi chúng ta suy nghĩ về tình huống quá nhiều, hoặc khi làm như vậy khiến ta đau đớn và chúng ta bắt đầu những vòng lặp suy nghĩ tiêu cực, đó không phải là tâm lang thang, đó là nghiền ngẫm. Đây là một sự khác biệt quan trọng. Bạn thực sự cần thời gian nghỉ ngơi không căng thẳng mỗi ngày.

Khi chúng ta có một tâm trí khỏe mạnh và được nghỉ ngơi một vài phút, DMN cho phép bộ não phân tích và so sánh, giải quyết các vấn đề và tạo ra các kịch bản thay thế. Nhưng có một điều cần nhớ về DMN: Nó không thể kích hoạt khi bạn đang tập trung vào một nhiệm vụ. Nhà nghiên cứu Mary Helen Immordino-Yang mô tả hai hệ thống não bộ xen kẽ: 1) hệ thống tác vụ tích cực hoặc “hướng ngoại” được kích hoạt khi chúng ta thực hiện các nhiệm vụ có mục tiêu và 2) hệ thống tác vụ tiêu cực hoặc hệ thống nghỉ ngơi dành cho việc “hướng nội”.4 Khi chúng ta chú tâm vào các nhiệm vụ bên ngoài đòi hỏi sự tập trung, từ việc tìm kiếm một địa chỉ nào đó cho đến học ôn thi, chúng ta tắt trạng thái mơ giữa ban ngày, “hướng nội” của não. Và khi chúng ta mơ giữa ban ngày, khả năng chúng ta “hướng ngoại” và thực hiện một nhiệm vụ cụ thể sẽ biến mất.

Nền văn hóa của chúng ta đánh giá cao việc hoàn thành công việc. Nhưng nghiên cứu cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc để tâm lang thang. Jerome Singer, nhà tâm lí học nhận thức huyền thoại, là nhà khoa học đầu tiên cho rằng trạng thái tinh thần mà tâm trí được phép lang thang tự do, trên thực tế, là trạng thái “mặc định” của chúng ta. Singer tranh luận thêm trong cuốn sách Daydreaming của ông phát hành năm 1966 rằng mơ giữa ban ngày, tưởng tượng và mơ tưởng là những yếu tố thiết yếu của một đời sống tinh thần lành mạnh. Những yếu tố này bao gồm sự tự nhận thức, sự ươm mầm sáng tạo, lập kế hoạch tự suy ngẫm bản thân, xem xét ý nghĩa của các sự kiện và tương tác, cân nhắc quan điểm của người khác, suy ngẫm về cảm xúc của chính mình và của người khác, và lý luận đạo đức.5 Tất cả những điều này dẫn đến cái mà chúng ta gọi là thời khắc “vỡ lẽ!” Nhạc sĩ, nhà văn có sách bán chạy đồng thời là nhà khoa học thần kinh Daniel J. Levitin nhấn mạnh rằng những hiểu biết thấu đáo có nhiều khả năng sẽ xuất hiện khi bạn ở trong chế độ tâm lang thang hơn là trong chế độ tập trung vào nhiệm vụ. Chỉ khi chúng ta để tâm trí lang thang vô định, chúng ta mới tạo ra những kết nối bất ngờ giữa những thứ đã được kết nối mà chúng ta không nhận ra. Điều này có thể giúp bạn giải quyết các vấn đề mà trước đó dường như không thể giải quyết được.6 (Như Carlo Rovelli đã chỉ ra trong cuốn Seven Brief Lessons on Physics, bước đột phá của Einstein về thuyết tương đối đã nhanh chóng xuất hiện sau một năm ông “rong ruổi không mục đích” và tham dự các bài giảng ngẫu nhiên ở nước Ý.7)

DMN bật và tắt càng hiệu quả, bạn càng trở nên giỏi hơn trong việc xử lí các sự việc trong cuộc sống. Khi đến lúc phải kéo mình ra khỏi trạng thái mơ giữa ban ngày và quay trở lại với nhiều kích thích không ngừng của cuộc sống, bộ não của bạn đã được chuẩn bị và sẵn sàng hành động. Những người có DMN hoạt động hiệu quả làm tốt hơn trong các bài kiểm tra về khả năng nhận thức, bao gồm trí nhớ, tính linh hoạt của suy nghĩ và khả năng đọc hiểu. Những người có thể bật tắt DMN hiệu quả cũng có sức khỏe tinh thần tốt hơn.8 Cũng giống như việc có phản hồi căng thẳng hiệu quả, bật nhanh khi cần và tắt nhanh khi không cần. Ở những người mắc chứng rối loạn tăng động giảm chú ý, chứng lo âu, trầm cảm, tự kỷ hoặc tâm thần phân liệt, DMN không hoạt động hiệu quả. Họ gặp khó khăn hơn khi chuyển đổi qua lại giữa hệ thống “hướng ngoại” và “hướng nội”, dẫn đến mơ màng quá mức hoặc tập trung quá mức. Khi chúng ta nghiền ngẫm, chúng ta không bật tắt DMN hiệu quả – chúng ta mắc kẹt trong suy nghĩ trong khi có một thứ gì đó ngay trước mặt cần chúng ta phải tập trung.

Chúng ta sống trong một thế giới nơi mà “buồn chán” là một từ xấu và mọi người thường cạnh tranh để xem ai bận rộn hơn, như thể ý thức về giá trị bản thân họ có thể được đo lường tỉ lệ nghịch với lượng thời gian mà họ có. Tình trạng siêu năng suất này lan sang cả trẻ em. Hãy nghĩ đến một gia đình Mỹ điển hình đang lái xe đi đâu đó: những đứa trẻ muốn nghe, xem một cái gì đó hoặc chơi một trò chơi. Chúng đã quên mất cách nhìn ra ngoài cửa sổ, nói chuyện phiếm hoặc mơ giữa ban ngày. Nhà tâm lí học Adam Cox nhận thấy rằng 50 năm trước, trẻ em có thể buồn chán sau vài giờ không có việc gì để làm, ngày nay trẻ em trở nên buồn chán sau 30 giây, trong khi đó, hầu hết người lớn cảm thấy cần phải kiểm tra điện thoại trong bốn giây khi đi chậm lại và dừng chờ đèn giao thông.9 Sự buồn chán khiến những thanh thiếu niên bị kích thích quá mức trở nên bất an, trong khi đó “sự hỗn loạn của việc kết nối liên tục lại quen thuộc một cách dễ chịu.”10

Câu trả lời ở đây là ít hơn lại tốt hơn. Hãy đan xen các khoảng thời gian kết nối và hoạt động với các khoảng thời gian yên tĩnh. Khi bạn đang chờ để gặp bác sĩ, hoặc chờ xe buýt, bạn có ngay lập tức lấy tạp chí ra đọc hoặc kiểm tra điện thoại của mình không? Nếu bạn chỉ ngồi đó trong một vài phút thì sao? Khi bạn lái xe, đi bộ hoặc chạy bộ thể dục, bạn có nghe Spotify hay một podcast nào không? Nếu thay vào đó bạn lắng nghe những suy nghĩ của riêng mình thì sao? Bạn sẽ suy nghĩ điều gì? Chúng ta cần để tâm chú ý hơn tới thời gian nghỉ ngơi triệt để khi hiện nay các kích thích tồn tại ở khắp mọi nơi. Mặc dù đi bộ đường dài hoặc cắm trại đã từng là một cách nghỉ ngơi, nhưng chẳng mấy chốc sẽ không có nơi nào mà bạn không thể kết nối nữa. Chúng ta cần chủ động chọn không mang theo điện thoại bên mình hoặc tắt chúng đi.

Nếu có một điều chúng tôi hi vọng bạn sẽ làm khác đi sau khi đọc phần này thì đó là hãy cho phép con bạn không làm gì cả. Chúng ta – những người là cha mẹ – đôi khi cũng là nguyên nhân gây ra vấn đề chẳng khác gì sự tràn lan của công nghệ. Một trong những học sinh căng thẳng nhất và cố gắng quá sức nhất của Ned đã bày tỏ một cách hùng hồn những gì mà rất nhiều đứa trẻ cảm thấy. “Em chỉ muốn có một vài giờ cho bản thân mình. Để làm điều em muốn, chính là không làm gì cả. Nhưng nếu em có một chút thời gian rảnh, bố mẹ em sẽ lấp đầy ngay lập tức. ‘Con có nên làm thêm bài ôn tập kiểm tra hay học thêm gì không?’” Chúng ta lên lịch cho con thực hiện hết hoạt động này tới hoạt động khác, để con có thể theo kịp những đứa trẻ khác và không bao giờ “lãng phí thời gian”. Nhưng thời gian rảnh rỗi để mơ giữa ban ngày thực sự rất cần thiết.

Nhà tâm lí học trẻ em Lyn Fry khuyên rằng các bậc cha mẹ nên ngồi xuống cùng con cái mình ngay từ đầu kì nghỉ hè và để con trẻ lập danh sách tất cả những điều mà chúng muốn tự làm trong thời gian rảnh rỗi. Nếu chúng buồn chán, chúng có thể tham khảo danh sách đó.11 Con trẻ chính là những người phải tìm ra cách sử dụng thời gian của mình mà không cần cha mẹ làm thay con. Và chúng có thể chỉ dành thời gian đó để suy nghĩ về việc mình muốn trở thành người như thế nào. Học cách chấp nhận sự đơn độc – cảm thấy thoải mái với chính mình – là một trong những kĩ năng quan trọng nhất mà người ta có được trong thời thơ ấu.

Cậu con trai Matthew của tôi là người mà mọi người thường gọi là “hay mơ giữa ban ngày”. Khi thằng bé bốn hoặc năm tuổi, trong lúc chúng tôi ăn sáng cùng nhau trước khi đến trường, và khi tôi rời mắt khỏi tờ báo, tôi thấy Matthew nhìn chằm chằm vào không gian xuyên qua bát ngũ cốc của mình.

“Con đang làm gì vậy?”, tôi hỏi.

“Con đang lắng nghe”, Matthew trả lời.

“Ồ, được rồi”, tôi nói, và hơi bối rối vì lúc đó phải nói là khá yên tĩnh. “Con có thể ăn ngũ cốc trước khi nó bị nhũn không?”

“Vâng”, Matthew nói, nhưng một hoặc hai phút sau, thằng bé vẫn nhìn chằm chằm vào không gian.

“Con đang nghe gì vậy?”, tôi hỏi. Tôi lo lắng không biết sẽ mất bao lâu thằng bé mới ăn hết món ngũ cốc của mình.

“Những bài hát trong đầu con”, thằng bé trả lời.

Sau đó, vì việc đó đã xảy ra thêm nhiều lần nữa, tôi hiểu rằng khi làm gián đoạn giấc mơ của Matthew, tôi khẳng định rằng kế hoạch người lớn của tôi là đưa con đến trường quan trọng hơn. Nhưng nghiên cứu hiện nay cho thấy việc mơ giữa ban ngày của Matthew có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nhận thức của trẻ giống như bất kì hình thức tư duy nào khác mà trẻ thực hiện. Và bây giờ khi bạn bè của tôi hỏi khả năng âm nhạc của Matthew đến từ đâu, tôi nghĩ tới những lợi ích tốt đẹp mà việc mơ giữa ban ngày đã mang lại.

- Ned