• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nuôi dạy đứa trẻ tự chủ
  3. Trang 47

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 46
  • 47
  • 48
  • More pages
  • 91
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 46
  • 47
  • 48
  • More pages
  • 91
  • Sau

Giảm căng thẳng và áp lực học tập

Trong Chương 1, chúng ta đã thảo luận về tác động của căng thẳng đối với việc thực hiện chức năng cảm xúc của bộ não. Ở đây chúng tôi muốn nói về sự căng thẳng một cách cụ thể khi nó ảnh hưởng đến việc học.

Một trong những điều đầu tiên mà Ned chú ý trong công việc dạy kèm của mình là hết những đứa trẻ này đến những đứa trẻ khác có thể làm bài luyện thi rất tốt, nhưng khi làm các bài thi SAT hoặc ACT (Bài thi để xét tuyển vào Đại học ở Hoa Kỳ) chính thức thì kết quả lại kém hơn. Anh đọc rất nhiều và nói chuyện với các nhà khoa học và các nhà tâm lí học để tìm hiểu lí do tại sao, và đây chính là cách mà anh khám phá ra Định luật Yerkes-Dodson. Đầu những năm 1900, hai nhà tâm lí học Robert Yerkes và John Dodson đã đề xuất rằng hiệu suất tăng lên khi kích thích sinh lý và tinh thần đạt đến một điểm nhất định, sau đó nó bắt đầu suy giảm. Chúng ta cần một mức độ kích thích nhất định – từ sự tò mò, thích thú, hay căng thẳng nhẹ – để sự sắc sảo trí tuệ đạt đến mức độ tối ưu. Nhưng khi chúng ta quá căng thẳng, chúng ta không thể suy nghĩ rõ ràng được. Bộ não của chúng ta trở nên kém hiệu quả. Các cách thức tiếp cận khác nhau mà các học sinh của Ned đã sử dụng khi làm bài kiểm tra học kì chính là minh họa hoàn hảo cho Định luật Yerkes-Dodson trên thực tế. Tính trung bình, các bé gái có đường cong dịch chuyển sang trái và bé trai có đường cong dịch chuyển sang phải. Điều này có nghĩa là mức căng thẳng tối ưu cho các bé gái thường không đủ mạnh để thúc đẩy các bé trai, và mức căng thẳng tối ưu cho các bé trai có thể quá sức đối với nhiều bé gái. (Hãy nhớ rằng, đây là mức trung bình – mỗi đứa trẻ đều có sự khác biệt. Một số bé gái có đường cong Yerkes-Dodson có thể giống con trai hơn và ngược lại.) Là cha mẹ, bạn nên nhớ rằng những thứ có hiệu quả trong việc tạo động lực cho bạn có thể không hiệu quả với con bạn, và có những thứ không phải là vấn đề lớn với bạn nhưng có thể lại thực sự quá sức với con bạn.

a3

Nếu bạn xem xét đường cong Yerkes-Dodson trong mối liên hệ với trường học, bạn có thể thấy một phần ba trẻ em ở trạng thái học tập tối ưu, được gọi là “sự tỉnh táo thư giãn”, một phần ba căng thẳng quá mức, và một phần ba chán tới buồn ngủ. Trong những năm qua, nhiều nghiên cứu đã củng cố Định luật Yerkes-Dodson.5 Học sinh học tập và đạt kết quả tốt nhất trong một môi trường có tính thách thức cao nhưng tính đe dọa thấp – khi mà học sinh được cung cấp những kiến thức khó trong một môi trường học tập mà học sinh cảm thấy an toàn để khám phá, mắc sai lầm và có thể sử dụng thời gian chúng cần để học tập và tạo ra kết quả tốt. Khi học sinh hiểu rằng thất bại là điều bình thường, chúng có thể chấp nhận các kiểu mạo hiểm có thể giúp chúng trưởng thành thực sự. Chúng có thể phát triển bộ não có khả năng làm việc đạt hiệu suất cao và cảm thấy hạnh phúc.

Nhiều đứa trẻ chúng tôi gặp không được học trong môi trường này. Chúng học tập trong một môi trường có hại cho não bộ, nơi mà mỗi ngày của chúng bao gồm sự căng thẳng và mệt mỏi, thường đi kèm sự buồn chán ở mức cao. Bạn có biết mô tả cổ điển về chiến tranh là “sự nhàm chán vô tận với những thời khắc kinh sợ đan xen” không? Nhiều ngôi trường đã trở thành phiên bản màu nhạt của điều này. Kết quả là, nhiều học sinh học tập không tốt và đang phải chịu đựng các triệu chứng liên quan đến căng thẳng.

Quá nhiều căng thẳng làm ngập vùng vỏ não trước trán, bộ phận mà chúng tôi đã giới thiệu trong Chương 1 là vùng Goldilocks hay lo của não. Vùng vỏ não trước trán cần một sự cân bằng tinh tế giữa dopamine và norepinephrine để hoạt động hiệu quả. Nếu vùng vỏ não trước trán hoạt động không hiệu quả, học sinh sẽ mất khả năng tập trung và duy trì sự chú ý, và cả ba chức năng điều hành cốt lõi của não – ức chế, trí nhớ ngắn hạn và sự linh hoạt nhận thức – đều bị suy yếu.6

Trí nhớ ngắn hạn có lẽ đóng vai trò quan trọng nhất trong các chức năng điều hành khi xét đến việc học. Trí nhớ ngắn hạn cho phép bạn ghi nhớ thông tin trong khi kiểm soát hoặc cập nhật nó. Trí nhớ ngắn hạn cho phép bạn liên hệ hiện tại với quá khứ và tương lai, cho phép bạn tạo ra các kết nối, và chính là yếu tố then chốt của sự sáng tạo. Bạn có thể nói rằng trí nhớ ngắn hạn đang học tập. Một số chuyên gia nói rằng trí nhớ ngắn hạn sẽ trở thành chỉ số thông minh IQ mới – vì nó dự đoán sự thành công trong học tập và trong cuộc sống tốt hơn IQ.7 Khi trẻ bị căng thẳng và trí nhớ ngắn hạn bị suy yếu, chúng gặp khó khăn trong việc tích hợp thông tin, nắm bắt và lưu giữ mạch truyện. Hãy nghĩ về bộ não giống như bộ nhớ RAM trong máy tính cho phép các chương trình vận hành (chứ không phải kho lưu trữ trên ổ cứng). Tải nhận thức lớn – có quá nhiều thứ trong tâm trí bạn – giống như việc mở quá nhiều trình duyệt cùng một lúc. Tại một điểm nào đó, máy tính bắt đầu chậm lại hoặc gặp sự cố. Có quá nhiều căng thẳng cũng khiến bộ não bị như vậy.

Ned có một thủ thuật toán tinh vi mà ông thường chơi với trẻ em (hãy thử nếu bạn thích nhưng phải tính toán trong đầu chứ không phải viết ra giấy) để đánh giá trí nhớ ngắn hạn. Ông nói nhanh: “Lấy 1000. Cộng thêm 40. Được chưa? Cộng thêm 1000 khác. Cộng thêm 30. Cộng thêm 1000. Cộng thêm 20. Cộng thêm 1000. Cộng thêm 10. Tổng là bao nhiêu?” Khi ông hỏi mọi người kết quả họ tính được, hầu hết mọi người đều trả lời là 5000. (Câu trả lời đúng là 4100). Ned có một người bạn làm giao dịch trái phiếu ở Phố Wall, một người đam mê toán học thực sự, và cô ấy cũng trả lời là 5000. Sai lầm này không liên quan gì đến toán học, mà có liên quan đến cách bộ não hoạt động và khó khăn mà bộ não phải đối mặt khi vừa phải tiếp nhận nhiều thông tin khác nhau vừa phải tính toán chúng trong đầu. Nếu thêm căng thẳng vào đó, bạn sẽ gặp nguy to. Cách đây một thời gian, Ned làm việc với một gia đình có con gái đang thực sự chật vật. Việc học rất khó, nhưng bài thi ACT là địa ngục. Có thể nói rằng sự căng thẳng đang nhấn chìm cô bé. Ned đã giới thiệu bài toán mẹo nói trên bằng cách nói với cô rằng anh có một bài toán mẹo mà “mọi người đều thích” (cố gắng làm cho cô bé cảm thấy an toàn) và muốn chỉ cho cô bé thấy kiểu sai lầm chúng ta thường mắc phải trong các bài kiểm tra, những lỗi mà người ra đề kiểm tra cố tình tạo ra để bẫy học sinh. Anh thậm chí còn chưa nói hết một nửa những con số trên mà đôi mắt cô bé đã đẫm lệ, vì toán học – thực sự là bất cứ điều gì gắn liền với việc học – đã trở thành mối đe dọa sâu sắc với cô bé. Sự bình tĩnh, chứ không phải các phép tính, là điều mà bộ não của cô bé cần nhất.

Hãy nhớ rằng, chúng ta được cho là không thể suy nghĩ mạch lạc và logic khi đang gặp phải mối đe dọa. Chúng ta được cho là phải chạy bán sống bán chết, đứng lại và chiến đấu, hoặc là giả chết. Khi con bạn lo sợ rằng giáo viên nghiêm khắc của con sẽ gọi con trả lời và con sẽ xấu hổ trước lớp, cậu bé không thể suy nghĩ về bất kì điều gì mà giáo viên đang dạy tại thời điểm đó. Bản năng sống sót luôn lấn át học tập.

Mặc dù chúng tôi muốn trường học thách thức trẻ em, nhưng họ chỉ nên làm như vậy trong một môi trường đem đến cảm giác chấp nhận và khích lệ. Môi trường đó như thế nào còn tùy thuộc vào những hoàn cảnh cụ thể, nhưng các câu hỏi đều giống nhau: Trẻ em có cảm thấy an toàn ở trường cả về thể chất và cảm xúc không? Trẻ có ý thức tự kiểm soát đối với những gì mình đang làm trong lớp không? Trẻ có an toàn khi phạm sai lầm không?

Ngoài ra, hãy nhắc nhở con bạn rằng điều quan trọng là chúng phát triển bản thân, chứ không phải là đạt điểm số hoàn hảo. Như chúng ta đã thảo luận khi chúng tôi đề cập đến những đứa trẻ Hermione trong Chương 5, hãy giúp con bạn biết suy xét. Cuối cùng là, một trong những điều tốt nhất bạn có thể làm để giảm thiểu căng thẳng trong việc học tập của con là đừng tự ý can thiệp. Và nếu bạn làm thế, hãy xin lỗi con, giống như mẹ của một học sinh của Ned đã làm. Bà ấy đã viết một lá thư rất cảm động cho con gái mình đến nỗi chúng tôi đề nghị được đưa nó vào cuốn sách. Lá thư có nội dung như sau:

Tối nay mẹ đã làm con thất vọng, và mẹ muốn được con tha thứ. Mẹ biết hành động của mình không thể biện minh, nhưng mẹ muốn giải thích những gì đã xảy ra.

Chiều nay mẹ gặp mẹ của một bạn học cùng lớp con, và cô ấy đã hỏi mẹ về điểm thi toán hôm qua của con. Mẹ nhún vai và nói rằng mẹ không biết gì về bài kiểm tra toán. Khi cô ấy lắc đầu không tán thành, mẹ cảm thấy xấu hổ như mình là một người mẹ vô tâm. Mẹ bị rối trí và lúng túng. Khi về nhà, mẹ đã tuôn ra hàng loạt câu chất vấn con về việc chuẩn bị cho bài kiểm tra và kết quả bài kiểm tra của con. Mẹ nói với con mẹ muốn kiểm tra bài tập về nhà và xem điểm của con. Con nhìn chằm chằm vào mẹ đầy hoài nghi với đôi mắt đẫm lệ.

Con luôn là một đứa trẻ ham hiểu biết và sáng tạo. Con luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác, hòa đồng, siêng năng nhưng không ganh đua. Mẹ đã cho phép một người mẹ khác – người đang cố xác định xem liệu con cô ấy có kết quả tốt hơn con không – xen vào làm cản trở mối quan hệ của mẹ với con.

Mẹ hứa rằng mẹ sẽ không bao giờ hỏi điểm kiểm tra của con, không bao giờ kiểm tra bài tập về nhà hoặc xem điểm trực tuyến và thậm chí không bao giờ xem bảng điểm của con trừ phi con quyết định cho mẹ xem.

Đối với mẹ, con không phải là con số hay một chữ cái; con là món quà yêu quý của mẹ, xứng đáng nhận được sự tôn trọng của mẹ. Mẹ hi vọng có thể tìm lại niềm tin và sự tôn trọng của con.

Mẹ yêu con.

Mẹ của con

Chúng tôi cũng cho rằng việc học sinh và cha mẹ cùng phối hợp với nhau nhằm giảm bớt sự căng thẳng ở trường học cũng rất quan trọng. Chúng tôi ủng hộ việc thành lập các nhóm giảm căng thẳng bao gồm học sinh, giáo viên, ban quản lý nhà trường và phụ huynh – với mục tiêu tìm ra các cách để làm cho trường học bớt căng thẳng hơn cho tất cả mọi người. (Lần đầu tiên Bill giảng bài cho đội ngũ giáo viên ở một trường học về tác động của căng thẳng đối với não bộ, người trợ lý hiệu trưởng đã đến gặp Bill sau buổi hội thảo và bày tỏ sự lo lắng về não bộ của chính mình, chia sẻ cuộc sống của một quản trị viên trường học căng thẳng như thế nào). Những nhóm này có thể tập trung vào các cách thức để gia tăng sự tự chủ của học sinh và giáo viên, tạo thêm cơ hội để có thời gian nghỉ ngơi trong mỗi ngày học ở trường và sửa đổi chính sách bài tập về nhà (như không yêu cầu làm bài tập về nhà trong kỳ nghỉ).8