• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Nuôi dạy đứa trẻ tự chủ
  3. Trang 49

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 48
  • 49
  • 50
  • More pages
  • 91
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 48
  • 49
  • 50
  • More pages
  • 91
  • Sau

Dạy trẻ khi chúng sẵn sàng

Người bạn của chúng tôi, Marie, có con gái là Emily vừa vào mẫu giáo. Emily đã đi nhà trẻ, chương trình học ở đó xoay quanh những việc như vuốt ve thỏ và sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật với mì macaroni. Emily không tỏ ra thích thú với việc học đọc, nhưng cô bé thích nhảy múa hoặc ca hát và có thể chơi với búp bê Barbies hàng giờ liền. Chị gái của Emily là Frances đã có thể đọc tốt trước khi học mẫu giáo, và sự khác biệt giữa hai chị em khiến Marie lo lắng. Ông bà của Emily cũng nghĩ đó là một vấn đề, và gợi ý rằng có lẽ cô nên đọc sách cho Emily nghe thường xuyên hơn. Khi Marie kể với một bà mẹ khác về chuyện đó, người đó cũng chia sẻ mối lo tương tự về hai cô con gái của mình. Cô tự hỏi liệu đó có phải là lỗi của mình vì không đọc sách cho con bé đủ nhiều hay không? Có phải những đứa em này sẽ bị tụt lại sau khi vào học mẫu giáo không?

Tình huống này khiến chúng tôi phát điên vì nó bắt nguồn từ sự sợ hãi, tính cạnh tranh và áp lực, không phải từ khoa học hay thực tế. Không chỉ cha mẹ cảm thấy áp lực quá mức, mà con cái của họ cũng vậy. Thước đo được đưa ra để, so sánh đứa trẻ này với đứa trẻ khác, trước cả khi chúng bắt đầu đi học chính thức. Chuẩn đối sánh học tập đang bị đẩy lên ở độ tuổi ngày càng sớm hơn, dựa trên giả định sai lầm rằng cho trẻ bắt đầu sớm có nghĩa là sau này trẻ sẽ học tốt hơn. Hiện nay chúng ta dạy đọc cho trẻ năm tuổi mặc dù bằng chứng cho thấy việc dạy trẻ đọc lúc bảy tuổi hiệu quả hơn, và bất kì lợi thế nào trẻ có được nhờ học đọc sớm sau này đều sẽ biến mất.17

Những gì từng được coi là chương trình nâng cao cho một khối lớp nhất định giờ đây trở thành mức tiêu chuẩn, và những đứa trẻ phải chật vật để theo kịp hoặc chỉ là chưa sẵn sàng đều bị coi là yếu kém. Trẻ em cảm thấy thất vọng, xấu hổ và chịu đựng ý thức tự kiểm soát thấp nếu chúng chưa sẵn sàng học những gì chúng được dạy.

Thực tế là mặc dù trường học đã thay đổi, nhưng trẻ em thì không. Trẻ em năm tuổi ngày nay về căn bản không hề tiến bộ hơn so với trẻ em cùng tuổi vào năm 1925, thời điểm chúng ta bắt đầu đo lường những số liệu này. Một đứa trẻ ngày nay có thể vẽ một hình vuông ở cùng độ tuổi với một đứa trẻ sống năm 1925 (bốn tuổi rưỡi), hoặc một hình tam giác (năm tuổi rưỡi), hoặc nhớ được đã đếm bao nhiêu đồng xu (lên tới 20 đồng xu khi trẻ sáu tuổi). Những thông tin cơ bản này cho thấy mức độ sẵn sàng của một đứa trẻ trong việc học đọc và số học. Chắc chắn có một số trẻ sẽ nhảy bật lên khỏi đường cong, nhưng trẻ em cần có khả năng ghi nhớ con số trong đầu để thực sự hiểu phép cộng, và chúng phải có khả năng nhận ra đường xiên trong một hình tam giác để nhận biết và viết các chữ cái như K và R. Vấn đề là trong khi trẻ em thập niên 1920 đến 1970 được tự do vui chơi, giúp đặt nền móng cho các kĩ năng quan trọng như sự tự điều chỉnh, thì trẻ mẫu giáo trong thời hiện đại phải học đọc và học viết.

Sự phát triển trí não giúp ta dễ dàng học hầu hết mọi thứ (ngoại trừ việc học ngoại ngữ) khi chúng ta lớn lên. Công việc luôn dễ dàng hơn khi có công cụ tốt. Bạn có thể đóng một cái bàn với một cái cưa cùn, nhưng bạn sẽ mất nhiều thời gian hơn, không cảm thấy dễ chịu và có thể hình thành những thói quen xây dựng không tốt mà sau này bạn khó có thể phá vỡ. Một trong những vấn đề rõ ràng nhất mà chúng ta thấy từ việc vội vàng dạy học cho trẻ là trẻ cầm bút chì rất tệ. Việc cầm bút chì đúng cách thực ra không hề đơn giản. Bạn cần có kĩ năng vận động tinh để cầm cây bút nhẹ nhàng giữa hai đầu ngón tay và ngón cái, cố định nó, và di chuyển nó theo cả chiều ngang và chiều dọc chỉ bằng đầu ngón tay. Trong một lớp học mẫu giáo gồm hai mươi học sinh mà chúng tôi biết, trong số bọn trẻ được khuyến khích viết quá sớm, mười bảy em cần được trị liệu phục hồi chức năng để sửa lại cách cầm bút chì. Hãy xem xét điều này: 85% trẻ em cần có thêm sự hỗ trợ, cha mẹ phải chi trả thêm tiền, cả cha mẹ và con cái đều cảm thấy căng thẳng bởi vì một người lớn nào đó nghĩ rằng “Có tuyệt không khi chúng ta dạy những đứa trẻ bốn tuổi này tập viết?” mà không hề xét đến các cột mốc phát triển của trẻ.

Chúng tôi chứng kiến sự thúc đẩy sớm này lên tới tận cấp ba. Học sinh lớp Tám học các môn khoa học từng dạy cho học sinh lớp Chín, và học sinh lớp Mười đọc các tác phẩm văn học từng được giảng dạy ở trường đại học. Ở hạt Montgomery, ngoại ô thủ đô Washington, DC, học khu ở đây đã cố gắng dạy đại số cho hầu hết học sinh lớp Tám thay vì lớp Chín, với mục tiêu cuối cùng là dạy môn này cho hầu hết học sinh lớp Bảy. Đó là một thảm họa, cứ bốn học sinh thì có ba em trượt bài thi cuối kì.18 Các kĩ năng tư duy trừu tượng của hầu hết học sinh lớp Tám chưa phát triển đầy đủ để có thể thành thạo môn đại số. Trước đây, trẻ em bắt đầu học đại học trong những năm cuối tuổi vị thành niên vì chúng đã sẵn sàng; mặc dù luôn có những trường hợp ngoại lệ, nhìn chung, những học sinh 14 tuổi không được xem là đã phát triển sẵn sàng cho việc học khắt khe ở bậc đại học. Trớ trêu là, trong nỗ lực giúp những đứa trẻ của chúng ta phát triển, lối tư duy của riêng chúng ta về những vấn đề này đã đi giật lùi.

Ned nhận được yêu cầu từ nhiều phụ huynh muốn con cái họ bắt đầu ôn thi SAT từ lớp Chín. Ned nói với họ rằng đó là một sai lầm khi lấy thời gian của con cái và tiền bạc của mình để dạy cho chúng những điều mà chúng sẽ học ở trường một cách tự nhiên. Một việc tốt hơn nhiều là hãy chờ trẻ phát triển các kĩ năng và tiếp thu kiến thức ở trường, và sau đó bổ sung thêm phần ôn tập chuẩn bị cho kì thi trong năm học lớp mười một. Việc bắt đầu chuẩn bị cho bài thi quá sớm không chỉ là hoàn toàn không cần thiết, mà còn phản tác dụng. Việc đó giống như yêu cầu đứa trẻ 14 tuổi của bạn ngồi xuống để giải thích tính phức tạp của kế hoạch quỹ hưu trí 401(k). Sẽ không đi đến đâu cả.

Bill thường xuyên phải giải quyết các hậu quả của việc học sớm sai lầm. Anh đã chứng kiến nhiều đứa trẻ im lặng hoặc bật khóc khi được yêu cầu đọc bài bởi vì trong quá khứ chúng từng trải qua việc đó như một mối đe dọa. Khi những đứa trẻ thất bại hết lần này đến lần khác, chúng sẽ tiếp nhận thất bại. Gần đây, Bill nói chuyện với một nhà tâm lí học trẻ em có cô con gái bốn tuổi cảm thấy mình thất bại vì cô bé không thể viết vào vở tốt như các bạn cùng lớp.

Thông điệp trọng tâm ở đây là một thông điệp phản trực giác mà tất cả các bậc cha mẹ nên cố gắng tiếp thu: sớm hơn không nhất định sẽ tốt hơn; và tương tự như vậy, quá nhiều cũng không tốt hơn. Để chống lại những ảnh hưởng của việc học quá sớm, đây là một số điều bạn có thể làm:

• Nếu có thể, hãy chọn những trường quan tâm đến sự phát triển của trẻ trong chương trình giảng dạy và phù hợp với con bạn. Một số trẻ sẽ làm rất tốt khi là con cá lớn trong ao nhỏ. Việc đó mang lại cho trẻ sự tự tin để đối mặt với các vấn đề mà không sợ bị cuốn trôi. Trẻ trở nên mạnh mẽ và cảm thấy mạnh mẽ. Vậy nếu có con cá lớn hơn trong ao lớn hơn thì sao? Hãy giúp con bạn tìm môi trường học tập phù hợp với chúng.

• Thư giãn và nhìn xa, ngay cả khi không có ai xung quanh bạn. Hầu hết những đứa trẻ học đọc lúc năm tuổi thì đến khi chín tuổi cũng không đọc tốt hơn so với những đứa trẻ học đọc lúc sáu hay bảy tuổi. Bill nhớ rất rõ cảm giác hơi hoảng loạn mà anh và vợ anh – Starr – đã trải qua khi con gái họ lên năm tuổi và một số bạn bè của cô bé đã bắt đầu biết đọc. Mặc dù họ biết rằng khi lên bảy tuổi trẻ em học đọc dễ dàng hơn nhiều so với khi năm tuổi, và việc thúc ép trẻ học tập quá sớm có hại cho trẻ và không mang lại lợi ích lâu dài, Bill và Starr vẫn băn khoăn liệu họ có gây nguy hại cho tương lai của con không khi để cô bé tụt lại phía sau các bạn như vậy. Trong phút chốc, họ đã cân nhắc việc chuyển con gái khỏi ngôi trường mẫu giáo không chú trọng việc học đó. Nhưng cuối cùng, họ vẫn giữ vững lập trường và để cô bé ở lại ngôi trường không thúc ép hay giao bất kì bài tập về nhà nào cho đến năm lớp Bốn. Mặc dù có một khởi đầu không vội vàng nhưng cô đã lấy bằng tiến sĩ kinh tế tại Đại học Chicago ở tuổi 26 và trở thành một nhà kinh tế thành công. Bill thích kể câu chuyện đó, không phải để khoe khoang (được rồi, chỉ một chút thôi) để nhấn mạnh rằng đi ngược dòng là việc rất khó ngay cả khi bạn biết dòng chảy đang cuốn bạn đi sai đường.

• Hãy nhớ rằng bất kì thành quả nào từ việc phát triển vội vã đều sẽ biến mất. Cha mẹ thường khoe với Bill rằng con họ học lớp Ba nhưng làm toán lớp Bốn hay lớp Năm. Tuy vậy, anh chưa bao giờ nghe thấy người 26 tuổi nào khoe khoang mình thành công hơn hầu hết những người 28 tuổi.

• Đừng quá say mê các lớp nâng cao. Bạn chẳng đem đến lợi ích gì cho con khi để con theo học nhiều lớp nâng cao và con bạn phải trả giá bằng sức khỏe tinh thần và giấc ngủ của mình. Có một lí do tại sao ở bậc đại học trẻ hiểu tác phẩm Moby-Dick nhiều hơn so với khi học trung học. Khi chúng tôi xem xét sự khác biệt to lớn về mức độ trưởng thành của vùng vỏ não trước trán – và sự phát triển tương ứng trong khả năng tư duy trừu tượng và mức độ trưởng thành về cảm xúc – không có gì ngạc nhiên khi phần lớn trẻ sẽ hiểu và đánh giá cao các tác phẩm tiểu thuyết viết cho người trưởng thành hơn khi trẻ lớn hơn. Điều tương tự cũng đúng với các lí thuyết và dữ liệu khoa học phức tạp, các khái niệm định lượng và chủ đề lịch sử, hầu hết trẻ sẽ thấy dễ dàng tiếp thu hơn khi chúng ở độ tuổi học đại học. Điều này không nhằm mục đích nói rằng một số học sinh chưa sẵn sàng cho các khóa học cấp độ đại học khi họ 15 tuổi. Vấn đề là khi điều này trở thành tiêu chuẩn mặc định cho hầu hết các học sinh (nghĩa là tôi sẽ không bao giờ vào được đại học nếu tôi không học năm lớp nâng cao), nó sẽ gây hại nghiêm trọng.