Rất nhiều người coi đại học là mục tiêu cuối cùng và không ngừng tưởng tượng mọi thứ sẽ thế nào khi họ vào được đại học. Điều này làm chúng tôi nhớ đến những bậc cha mẹ đang chờ đón ngày con chào đời (đặc biệt là chào đón đứa con đầu lòng) băn khoăn về mọi khía cạnh của việc mang thai và sinh nở. Sau đó, đứa bé ra đời và những điều lo lắng không hề dừng lại – trên thực tế, họ phát hiện ra rằng những thử thách thực sự chỉ mới bắt đầu.
Môi trường đại học có nhiều khác biệt so với những gì mà học sinh phổ thông trung học đã trải qua, và nhiều thanh thiếu niên vẫn chưa phát triển một số kĩ năng cơ bản để sống và học tập trong môi trường đó trước khi rời xa gia đình. Họ có thể đã học tập rất chăm chỉ để đạt điểm cao trong các bài kiểm tra chuẩn hóa, vùi mình trong bài tập về nhà và các hoạt động ngoại khóa, và hoàn thành hồ sơ ứng tuyển đúng thời gian, nhưng tất cả đều được thực hiện dưới sự theo dõi của cha mẹ, đảm bảo rằng không có gì sai sót. Đối với nhiều em, mọi thứ trở nên hỗn loạn khi không có cha mẹ ở bên để cằn nhằn, nhắc nhở và đặt ra giới hạn.
Bill đã kiểm tra đánh giá Suzanne để xác định các khuyết tật học tập một vài lần bắt đầu từ lớp Hai. Suzanne được chẩn đoán mắc chứng tăng động giảm chú ý (ADHD), nhưng với sự trợ giúp của thuốc Ritalin, cô đã có thể học tốt trong suốt bậc tiểu học, trung học cơ sở và phổ thông trung học. Cô đã đăng kí vào trường đại học tư thục tinh hoa và tới gặp Bill để kiểm tra trong năm ba đại học. Cô phàn nàn rằng cô thường phải thức cả đêm để ôn thi và đôi khi là hai đêm liên tiếp. Lí do việc học mất nhiều thời gian như vậy là vì cô thấy khó tập trung hơn, và gặp khó khăn hơn trong việc học tập và ghi nhớ. Cô nói rằng “Em nghĩ là thuốc Ritalin mà em đang dùng suốt những năm qua để điều trị ADHD đang mài mòn bộ não của em.” Cô nói thêm rằng mẹ cô ấy nghĩ vấn đề là do rượu.
“Thế em uống nhiều không?”, Bill hỏi.
“Năm cốc mỗi đêm, bốn đêm một tuần ạ”, cô trả lời. Bill nói rằng như thế đủ điều kiện để xếp cô vào nhóm người nghiện rượu, Suzanne đáp lại: “Bạn thân nhất của em uống mười hai cốc mỗi đêm, sáu đêm một tuần.”
Còn nhiều điều cần tìm hiểu từ câu chuyện này, nhưng có lẽ đáng kể nhất là Suzanne phải được chỉ dẫn để kết nối hành vi có hại của mình – thiếu ngủ và uống nhiều rượu – với khó khăn trong việc tập trung và học hành. Đại học cũng ảnh hưởng đến nhiều đứa trẻ thông minh theo cách tương tự.
Điều này xảy ra là do đại học thường là một môi trường độc hại đối với bộ não. Hãy xem qua những nguồn gây căng thẳng hằng ngày mà hầu hết các sinh viên đại học phải trải qua:
Giờ đi ngủ trung bình là từ hai giờ đến ba giờ sáng. Một học sinh trung học mà Bill đánh giá cuối cùng đã kiểm soát được vấn đề giấc ngủ của mình với sự hỗ trợ của melatonin. Đến cuối năm lớp Mười hai, cậu đã có thể đi ngủ trước lúc nửa đêm trong hầu hết các đêm. Nhưng sau khi vào đại học, chế độ sinh hoạt của cậu không duy trì được vì bạn cùng phòng của cậu luôn thức đến bốn giờ sáng. Mới đây, một sinh viên năm thứ nhất đến làm kiểm tra đánh giá đã nói với Bill rằng việc đi ngủ lúc ba giờ rưỡi sáng “khá bình thường” bởi vì ở trường đại học, “mọi thứ xảy ra trong khoảng thời gian từ nửa đêm đến ba giờ sáng.” Nghiên cứu trên phạm vi rộng đã chỉ ra rằng sinh viên đại học là nhóm thiếu ngủ trầm trọng. Sinh viên trung bình chỉ ngủ sáu đến sáu tiếng rưỡi mỗi đêm, trong đó một số nghiên cứu cho thấy thời gian ngủ của sinh viên thậm chí còn ít hơn thế.1
Tất nhiên là có những trở ngại thực tế đối với giấc ngủ – khi bạn cùng phòng để đèn sáng hay có nhiều tiếng ồn, thật khó để có thể ngủ được. Nhưng sinh viên đại học cũng thường bị rối loạn chu kỳ giấc ngủ, Robert Stickgold gọi tình trạng này là “rối loạn giấc ngủ”(1) (ngủ say sưa vào cuối tuần, kỳ nghỉ và thức vào các đêm trong tuần).2 Do những căng thẳng liên quan đến trường học, chu kỳ giấc ngủ không đều, và những tác động phá hoại giấc ngủ của việc uống nhiều bia rượu và sử dụng công nghệ, sinh viên đại học có nguy cơ mắc chứng rối loạn giấc ngủ ít nhất là tương đương với những người lớn tuổi. Sinh viên thiếu ngủ phải trả giá bằng kết quả học tập sút kém và tăng nguy cơ gặp phải một loạt các vấn đề liên quan đến cảm xúc.3
(1) Trong sách tác giả ghi là sleep bulemia, nhưng theo thông tin BTV tra cứu được thì là sleep bulimia.
Nhưng nhiều học sinh trung học và sinh viên đại học đang tồn tại một yếu tố tâm lí kỳ lạ. Việc bạn ngủ ít lại trở thành một huy hiệu danh dự, một điều đáng để khoe khoang.
Ned đã từng có bốn cuộc gặp liên tục với các nữ sinh đến từ một trường cấp ba tinh hoa, họ vừa hoàn thành bài luận cuối kỳ lớp Mười một. Nữ sinh đầu tiên trông khá tiều tụy. “Em đã thức đến khoảng hai giờ sáng để hoàn thành bài vở của mình”, em nói. Khi nữ sinh này đi ra và người thứ hai bước vào, Ned nói: “Ồ, Susie trông em thực sự mệt mỏi. Có phải bài luận khó nhằn quá không?” “Vâng”, nữ sinh thứ hai trả lời. “Đêm qua em chỉ ngủ có hai tiếng.” Học sinh thứ ba còn nghiêm trọng hơn cả học sinh trước đó. Cô bé đã thức cả đêm. Và nữ sinh cuối cùng? Cô bé ấy giống như Vịt Daffy sau trận hỗn chiến với Thỏ Bugs(1). “Thức cả đêm? Thức cả đêm ấy ạ? Haha. Suốt hai ngày nay em không ngủ!!!” Hãy nhớ, những cô gái này đang học trung học. Các vấn đề chỉ trở nên nghiêm trọng hơn khi các em lên đại học, lúc đó không có cha mẹ ở bên.
(1) Vịt Daffy và Thỏ Bugs là các nhân vật trong series phim hoạt hình Looney Tunes do Warner Bros sản xuất.
Tất nhiên, cuộc đua tranh để tìm xem ai kiệt sức nhất thật là ngớ ngẩn, nhưng nó giúp ta hiểu được lí do đằng sau. Nếu hai người bạn cùng phòng đang ôn tập cho một bài kiểm tra hóa học giữa kỳ, một người đi ngủ lúc mười giờ đêm trong khi người kia học bài từ mười giờ đêm đến hai giờ sáng, người đi ngủ sớm có thể cảm thấy áy náy vì mình chưa học đủ (trong khi đi ngủ thực sự là việc tốt nhất học sinh ấy có thể làm). Người thức đến hai giờ sáng có thể nghĩ rằng việc học thêm vài giờ sẽ giúp bản thân loại bỏ được trách nhiệm nếu bài thi làm không tốt. Ít nhất là người đó đã làm hết mức có thể, chẳng phải sao? Và nó cứ tiếp tục như vậy.
Những ngày tháng vô tổ chức. Sinh viên đại học không bắt buộc phải đến lớp, và cũng không cam kết phải làm việc bốn mươi giờ một tuần. Một nghiên cứu khảo sát cho thấy họ dành mười lăm giờ một tuần cho học tập, trong khi một nghiên cứu khác gần đây cho thấy sinh viên dành mười chín giờ một tuần cho các hoạt động liên quan đến học tập, và hai mươi chín giờ cho các hoạt động giao lưu xã hội và giải trí.4 Điều đó có nghĩa là còn nhiều thời gian rảnh, và đối với nhiều đứa trẻ, đây là cơ hội đầu tiên để chúng tự mình quyết định nên sử dụng thời gian của mình như thế nào. Đó là một cơ hội tuyệt vời, nhưng với nhiều người, đó cũng có thể là một mối nguy hiểm. Các em sinh viên thấy mình chuyển từ những ngày được tổ chức chặt chẽ, với các giờ học được bố trí tuần tự bốn mươi lăm phút một tiết học, đến những ngày hoàn toàn tự do, các lớp học được tùy chọn, các bữa ăn thất thường, thường xuyên ăn uống sau nửa đêm, nhiều bữa tiệc đêm khuya, và không có hoặc có rất ít sự giám sát.
Một môi trường văn hóa nơi uống nhiều rượu bia là chuyện bình thường. Một nghiên cứu gần đây của Đại học Harvard cho thấy 44% sinh viên các trường đại học bốn năm uống rượu tới thỏa thích(1) hoặc hơn thế (tối thiểu năm ly liên tiếp cho nam và bốn ly cho nữ).5 Con số đó tương đương gần một nửa lớp. Các sinh viên toàn thời gian trong độ tuổi 18-22 tuổi thường hay uống bia rượu hơn và uống nhiều hơn so với bạn bè cùng lứa tuổi không học đại học, điều này cho thấy cuộc sống đại học có thể thực sự khiến sinh viên uống nhiều bia rượu.6 Gần đây Bill đã tư vấn cho một sinh viên vừa kết thúc năm thứ nhất tại một trường đại học tư thục tinh hoa. Cậu ta nói với Bill rằng tất cả những “đứa trẻ hòa đồng” ở đại học thường uống rượu tới thỏa thích vào tối thứ Ba, tối thứ Năm, tối thứ Sáu, cả ngày và đêm thứ Bảy. Cậu cũng nói rằng họ hút cần sa mỗi ngày. Ngoài việc khiến sinh viên dễ bị tụt lại trong lớp và sa vào nhiều hoạt động nguy hiểm (phá hoại tài sản công, gây rắc rối với cảnh sát, quan hệ tình dục bừa bãi và không an toàn, lái xe khi say rượu), có bằng chứng rõ ràng rằng uống rượu bia quá nhiều làm ảnh hưởng đến khả năng học tập và ghi nhớ, một phần là do ảnh hưởng đến sự phát triển của các tế bào thần kinh mới ở hồi hải mã.7
(1) Uống rượu tới thỏa thích (Binge Drinking): là hành vi uống rượu khiến cho nồng độ rượu trong máu (BAC) đạt 0,08% - hay 0,08g/100ml hoặc cao hơn. Đối với người trưởng thành, mức độ này tương ứng với 5 ly rượu (hoặc hơn) đối với nam, và 4 ly (hoặc hơn) đối với nữ, trong 2 giờ đồng hồ.
Thói quen uống rượu của thanh thiếu niên đã thay đổi đáng kể trong vài thập kỷ qua. Trong khi trước đây họ thường uống để vui, thì giờ họ uống để hủy hoại bản thân.8 Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, vì căng thẳng đóng vai trò quan trọng trong việc sử dụng thuốc ở những người trẻ tuổi. Khi bị căng thẳng, những con khỉ trong giai đoạn thanh niên sẽ tiêu thụ lượng tăng gấp đôi9 và một nghiên cứu gần đây báo cáo rằng tình trạng hút thuốc, uống rượu bia và sử dụng ma túy ở thanh niên đã tăng 100% khi họ bị căng thẳng nặng nề.10 Như chúng tôi đã đề cập trong Chương 1, người trẻ tuổi hiện nay lo lắng nhiều hơn so với trước đây, và khi cảm thấy mất kiểm soát trong cuộc sống, hoặc là bạn sẽ đương đầu hoặc là bỏ cuộc. Uống rượu đến thỏa thích là cách đối phó được nhiều người chọn; nó đem đến cho họ cảm giác được giải thoát hoàn toàn. Khi say, bọn trẻ cảm thấy mạnh mẽ hơn và kết nối nhiều hơn. Đó là một cách chữa lành nhanh chóng, nhưng về lâu dài là thảm họa.
Các vấn đề liên quan đến ăn uống. Nhiều sinh viên đại học chưa bao giờ mua sắm hay tự nấu ăn cho mình, và không biết cách ăn uống có trách nhiệm. Khi bạn mệt mỏi – giống như nhiều người – các chất trong não chịu trách nhiệm điều tiết việc ăn uống không còn hoạt động hiệu quả. Chức năng ức chế của vùng vỏ não trước trán, lời cảnh báo rằng bạn không nên ăn nữa, đã suy yếu. Những người ăn uống trong phòng ăn dễ có nguy cơ tăng 15 pound (~6,8 kg) trong năm đầu tiên học đại học, và chứng rối loạn ăn uống phát triển mạnh nhất thường diễn ra trong thời gian học đại học.11 Trên thực tế, 25% sinh viên đại học cố gắng kiểm soát cân nặng của mình thông qua các hành vi liên quan đến chứng cuồng ăn.12 Rối loạn ăn uống thường là biểu hiện của một nỗ lực cứng nhắc và không lành mạnh nhằm tạo ra ảo tưởng về việc kiểm soát trong khi thiếu vắng những cơ hội lành mạnh.
Lạm dụng chất kích thích. Nhiều sinh viên không được chẩn đoán ADHD đã tự ý sử dụng Adderall và các chất kích thích khác thường xuyên, không có kiểm soát. Các loại thuốc này được các sinh viên đang gặp khó khăn sử dụng nhiều nhất, thường với niềm tin sai lầm rằng chúng sẽ giúp cải thiện kết quả học tập. Người sử dụng các chất kích thích có nguy cơ uống nhiều bia rượu và sử dụng ma túy bất hợp pháp cao hơn so với những sinh viên khác. Ngoài ra, nhiều sinh viên sử dụng chất kích thích để nâng cao trải nghiệm của mình tại các bữa tiệc khi họ đang chịu ảnh hưởng của các loại thuốc khác.13
Tập hợp tất cả các vấn đề này lại, đại học có thể là môi trường sống căng thẳng và mất kiểm soát nhất chỉ sau vùng chiến sự. Chúng tôi không né tránh việc đưa ra phép so sánh này trong khi giảng bài, và gần đây chúng tôi nhận được lời nhắn từ một khán giả đến dự thính một trong các bài giảng của tôi: “Tôi là một cựu chiến binh từ Afghanistan. Anh nói rất đúng. Những gì tôi thấy ở trường đại học gần như tệ như vậy. Ít nhất là khi ở doanh trại còn có chỉ huy ra lệnh cho chúng tôi tắt đèn.” Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi các vấn đề về sức khỏe tâm thần trong các trường đại học đang gia tăng nhanh chóng, và tự tử là nguyên nhân gây tử vong xếp thứ hai ở các sinh viên.
Tiến sĩ Richard Kadison đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về “cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần” tại môi trường đại học năm 2004.15 Mối lo ngại của ông một phần là dựa vào những phát hiện từ một nghiên cứu về các xu hướng sức khỏe tâm thần tại Đại học Bang Kansas từ năm 1988 đến 2001. Nghiên cứu này cho thấy trong khoảng thời gian mười ba năm, chứng lo âu và các vấn đề liên quan đến căng thẳng trong sinh viên đã tăng 58%. Tỉ lệ trầm cảm tăng gần gấp đôi, và tỉ lệ rối loạn nhân cách, rối loạn phát triển, sử dụng thuốc tâm thần và tự tử cũng tăng như vậy.16 Nhiều nghiên cứu gần đây cũng xác nhận xu hướng này. Sinh viên năm thứ nhất đại học hiện có mức độ căng thẳng cao nhất và tình trạng sức khỏe tâm thần ở mức thấp nhất trong hai mươi lăm năm.17 Trong một cuộc khảo sát thực hiện năm 2010, 44% sinh viên tìm kiếm sự giúp đỡ tại trung tâm tư vấn của trường đại học mắc các vấn đề về tâm thần rất nghiêm trọng, trái ngược với tỉ lệ 16% của một thập kỷ trước đó. Mặc dù trầm cảm và chứng lo âu vẫn là những vấn đề thường gặp nhất ở các trung tâm tư vấn của trường đại học, ngày càng có nhiều sinh viên mắc các chứng rối loạn ăn uống do căng thẳng, lạm dụng chất gây nghiện và tự hủy hoại bản thân.18
Với lối sống độc hại cho não bộ mà nhiều sinh viên đại học đang theo đuổi, không có gì ngạc nhiên khi họ không có nhiều thứ để thể hiện trong bốn hoặc năm năm ở trường đại học. Cuốn sách gần đây có tên Academically Adrift của Richard Arum và Josipa Roksa đã tiết lộ rằng hơn 45% trong số 2300 sinh viên từ 24 trường đại học đã tham gia chương trình Đánh giá Học tập ở Đại học cho thấy tư duy phản biện, kĩ năng viết hoặc lập luận phức tạp không có sự cải thiện đáng kể vào cuối năm hai đại học. Sau bốn năm, 36% sinh viên không có sự cải thiện đáng kể trong các lĩnh vực này, cho dù vùng vỏ não trước trán trưởng thành mạnh mẽ trong giai đoạn này. Mặc dù Arum và Roksa cho rằng tình trạng thiếu vắng sự phát triển trí tuệ đáng chú ý này là do các trường đại học coi trọng nghiên cứu hơn là giảng dạy, và các sinh viên tìm kiếm những khóa học dễ dàng hơn và không học tập nghiêm túc, nhưng thực tế là bộ não của sinh viên có xu hướng làm việc với mức độ hiệu quả thấp như vậy cũng là một phần nguyên nhân. Bức tranh này có một sai lầm nghiêm trọng, và chúng tôi nghĩ rằng nó có liên quan đến việc trẻ thiếu khả năng kiểm soát khi vào đại học, và thực tế là bộ não của trẻ chưa được phép trưởng thành một cách hiệu quả.19
Con bạn có sẵn sàng quản lý một vũ trụ khác – chính là cuộc sống đại học ở Mỹ không? Việc đặt ra vấn đề này đòi hỏi sự dũng cảm, và chúng tôi mong rằng ngày càng có nhiều phụ huynh làm được điều đó. Trong chương này, chúng tôi sẽ giúp bạn chuẩn bị cho con vào đại học theo những cách giúp trẻ phát triển ý thức tự kiểm soát, đồng thời chúng tôi cũng đem đến cho bạn những ý tưởng về những việc cần làm nếu trẻ chưa sẵn sàng. Nhưng trước tiên, bạn có thể cần phải thay đổi suy nghĩ của mình về đại học.