Mười bốn

Một ngày mới. Ettinger gọi điện đến ngỏ ý cho họ mượn khẩu súng trong một thời gian. “Cảm ơn ông,” ông đáp. “Chúng tôi sẽ suy nghĩ về việc này.”

Ông lấy bộ dụng cụ của Lucy ra và sửa lại cánh cửa bếp khi ông còn có thể. Họ còn phải lắp các thanh sắt, các cánh cổng an ninh và một hàng rào vòng ngoài như Ettinger đã làm. Họ phải biến căn nhà nông trại này thành một pháo đài. Lucy sẽ phải mua một khẩu súng ngắn và một chiếc điện đàm hai chiều, còn phải tập bắn nữa. Nhưng liệu con bé có chịu làm theo không? Con bé ở đây vì nó yêu mảnh đất này và phong cách sống cũ kỹ, quê mùa. Nếu phong cách sống ấy của con bé đã bị hủy hoại, vậy thì còn lại cái gì nữa để nó yêu?

Katy được thuyết phục rời khỏi chỗ ấn náu và ở trong nhà bếp. Nó thờ ơ và sợ sệt, bám sát gót Lucy đi khắp nơi. Từng khoảnh khắc cứ thế nối nhau trôi, cuộc sống dần không còn như xưa nữa. Căn nhà thành nơi cư trú xa lạ, đã bị xâm phạm; họ không ngừng cảnh giác, lắng nghe tất cả mọi âm thanh.

Thế rồi Petrus trở về. Một chiếc xe tải cũ rên rỉ tiến lên lối xe vào nhà đã hư hỏng, rồi dừng lại cạnh chuồng chó. Petrus bước xuống xe, mặc bộ complet quá chật, đi theo là vợ anh ta và tài xế. Từ phía sau xe tải, hai người đàn ông chất hàng xuống, các cột gỗ tẩm dầu creosote, mấy miếng sắt mạ kẽm, một cuộn ống nhựa và cuối cùng, khá ầm ĩ và kêu la om sòm, là hai con cừu đang tuổi trưởng thành, được Petrus cột vào hàng rào. Chiếc xe tải lượn một vòng rộng quanh cái chuồng rồi ầm ì lùi khỏi lối xe vào nhà. Petrus và vợ anh ta biến mất vào bên trong. Một cột khói bắt đầu bay lên từ ống khói a-mi-ăng.

Ông tiếp tục theo dõi. Được một lúc, vợ Petrus lại xuất hiện, chị ta đổ hết thùng nước thải bằng một cử chỉ ung dung, phóng khoáng. Một phụ nữ xinh đẹp, ông tự nhủ, với chiếc váy dài và chiếc khăn trùm đầu vấn cao, phong cách thời trang thôn dã. Một phụ nữ xinh đẹp và một người chồng may mắn. Nhưng họ đã ở đâu?

“Petrus về rồi,” ông kể với Lucy. “Mang theo cả đống vật liệu xây dựng.”

“Tốt.”

“Tại sao anh ta không báo với con rằng mình đi vắng? Chẳng nhẽ con không thấy lạ sao khi anh ta lại biến mất vào đúng lúc này?”

“Con không thể yêu cầu Petrus được. Anh ấy cũng làm chủ.”

Một kết luận hoàn toàn lạc đề, nhưng ông mặc kệ. Với Lucy, ông đã quyết định, vào lúc này, nên để mọi chuyện qua đi.

Lucy sống khép mình, không biểu lộ bất kỳ cảm xúc gì, không còn thích thú trước bất kỳ cái gì xung quanh. Chính là ông, vốn chẳng biết gì về chuyện đồng áng, cũng buộc phải học cách lùa vịt ra khỏi chuồng, học cách làm chủ hệ thống cửa cống và dẫn nước vào cứu khu vườn khỏi bị chết khô. Hàng giờ liền, Lucy cứ nằm trên giường, nhìn trừng trừng vào khoảng không trước mặt hoặc xem mấy tờ báo cũ, có vẻ như chất đống trong nhà. Cô sốt ruột lật liên hồi các trang báo như thể muốn tìm kiếm thông tin gì đó mà không thấy. Chẳng thấy thêm số nào về Edwin Drood nữa.

Ông theo dõi Petrus bước ra ngoài đến con đập, trên người mặc bộ áo liền quần. Có vẻ hơi lạ khi người đàn ông này vẫn chưa báo cáo gì với Lucy. Ông rảo bước đến, chào hỏi nhau mấy câu. “Chắc cậu đã nghe tin rồi, chúng tôi vừa bị cướp vào hôm thứ Tư khi cậu đi vắng.”

“Vâng,” Petrus nói, “Tôi có nghe rồi. Rất tồi tệ, một chuyện rất tồi tệ. Nhưng giờ thì hai người không sao rồi?”

Ông có làm sao không? Lucy có làm sao không? Petrus không hỏi một câu nào à? Nghe không giống một câu hỏi, nhưng ông không thể xem nó như thế, không thể chấp nhận nó một cách đúng đắn. Câu hỏi là, câu trả lời là gì?

“Tôi còn sống,” ông nói. “Miễn là người ta còn sống thì người ta sẽ không sao cả, tôi nghĩ vậy. Phải, tôi không sao.” Ông ngừng lại, chờ đợi, cho phép bầu không khí câm lặng lan mãi ra, sự câm lặng mà Petrus buộc phải lấp đầy bằng câu hỏi tiếp theo: Còn Lucy thế nào?

Ông đã lầm. “Ngày mai Lucy có ra chợ không?” Petrus hỏi.

“Tôi không biết.”

“Bởi vì cô ấy sẽ mất chỗ bán hàng nếu không đi,” Petrus nói. “Có thể thế.”

“Petrus muốn biết ngày mai con có ra chợ không,” ông thông báo cho Lucy. “Anh ta sợ rằng con có thể mất chỗ bán hàng đấy.”

“Tại sao hai người không đi?” cô nói. “Con không muốn đi.”

“Con có chắc không? Bỏ lỡ một tuần thì tiếc lắm đấy.”

Con bé không đáp. Nó chỉ muốn giấu mặt đi, và ông hiểu tại sao. Bởi vì nỗi ô nhục. Bởi vì nỗi tủi hổ. Đó là những gì mà lũ xâm lăng kia đạt được; đó là những gì chúng đã làm với người phụ nữ trẻ tuổi, tự tin, hiện đại này. Giống như vết nhơ mà câu chuyện ấy trải ra khắp huyện này. Không phải câu chuyện của cô trải ra mà là câu chuyện của chúng: chúng là những chủ nhân của họ. Cách chúng đặt cô đúng vào vị trí ra sao, cách chúng cho cô hiểu làm đàn bà là như thế nào.

Với một bên mắt và lớp da đầu băng trắng xóa, ông cảm thấy có một sự ngại ngùng nhất định khi xuất hiện trước mọi người. Nhưng vì Lucy, ông gắng hoàn thành nhiệm vụ bán hàng ở chợ, ngồi bên cạnh Petrus tại chỗ bán hàng của mình, chịu đựng những cái nhìn chằm chặp tò mò, lịch sự trả lời với những người bạn của Lucy bày tỏ niềm thương xót. “Vâng, chúng tôi bị mất xe,” ông nói. “Và cả lũ chó, tất nhiên, cả bầy trừ một con. Không, con gái tôi không sao, chỉ là hôm nay nó không khỏe. Không, chúng tôi không hy vọng lắm, cảnh sát đang căng sức ra, tôi chắc chắn là mọi người cũng biết rồi. Vâng, chắc chắn tôi sẽ nhắn lại con bé.”

Ông đọc câu chuyện về họ được đăng trên tờ Herald. Những kẻ tấn công bí ẩn - đó là cách họ gọi những gã kia. “Ba kẻ tấn công bí ẩn đã tấn công cô Lucy Lourie cùng người cha già của cô tại trang trại nhỏ của họ ngoài Salem, sau đó chúng bỏ trốn, mang theo quần áo, đồ điện tử và vũ khí. Trong một bước ngoặt kinh hoàng, bọn cướp còn bắn chết sáu con chó giữ nhà trước khi tẩu thoát bằng chiếc xe 1993 Toyota Corolla mang biển kiểm soát CA 507644. Ông Lourie, bị chấn thương nhẹ trong vụ tấn công, được điều trị tại Bệnh viện Settlers và đã xuất viện.”

Ông mừng khi không thấy mối liên kết nào giữa người cha già của cô Lourie với David Lurie, môn đồ của nhà thơ tự nhiên William Wordsworth và gần đây làm giáo sư tại Trường Đại học Kỹ thuật Cape Town.

Về chuyện kinh doanh thực tế, chẳng có nhiều việc để ông làm. Petrus mới là người nhanh nhẹn và hiệu quả khi bày hàng ra bán, là người thuộc hết giá các mặt hàng, là người nhận tiền và trả lại tiền thừa. Thực ra Petrus mới là người làm mọi việc, trong khi ông ngồi đó và ủ ấm hai tay. Giống hệt như những ngày xưa: Ông chủ và Người hầu. Ngoại trừ việc ông không phải ra lệnh cho Petrus; mà anh ta làm luôn những gì cần phải làm, thế thôi. Tuy nhiên, doanh thu của họ giảm sút: chưa đến 300 rand. Lý do là sự vắng mặt của Lucy, không nghi ngờ gì nữa. Các thùng hoa, các túi đựng rau lại phải chất lên xe tải. Petrus lắc đầu. “Không hay rồi,” anh ta nói. Thế nhưng Petrus chẳng bao giờ đưa ra lời giải thích nào mỗi khi anh ta vắng mặt. Anh ta có quyền đến và đi khi nào muốn; anh ta đã thực thi cái quyền đó; anh ta có quyền giữ im lặng. Tuy nhiên những câu hỏi vẫn mãi còn đó. Petrus có biết những kẻ lạ mặt này là ai không? Phải chăng Petrus đã để lộ ra điều gì đó khiến Lucy trở thành mục tiêu của chúng, thay vì là Ettinger chẳng hạn? Petrus có biết trước về kế hoạch của chúng không? Như ngày xưa thì họ có thể nói thẳng ra với Petrus. Như ngày xưa thì họ có thể thuê người khác thế chỗ anh ta. Nhưng cho dù Petrus được trả lương đi nữa, thì nói thẳng, Petrus từ lâu không còn là người giúp việc được thuê nữa. Nghiêm túc mà nói, rất khó nói tư cách của Petrus là gì. Tuy nhiên, từ ngữ phù hợp nhất có lẽ là hàng xóm. Petrus là một người hàng xóm mà hiện đang bán sức lao động của mình, vì điều đó hợp với anh ta. Anh ta bán sức lao động của mình theo hợp đồng, bản hợp đồng miệng, và trong hợp đồng không có điều khoản sẽ bị hủy bỏ khi có nghi ngờ. Ông và Lucy cùng Petrus đang sống trong một thế giới mới. Petrus biết điều đó, ông biết điều đó, và Petrus biết rằng ông biết.

Bất chấp thấy khó chịu khi ở nhà cùng Petrus, ông lại bắt đầu thấy thích anh ta, mặc dù vẫn đề phòng. Petrus là người đàn ông thuộc thế hệ của ông. Không nghi ngờ gì nữa, Petrus đã lăn lộn rất nhiều, anh ta có cả một kho chuyện để kể. Ngày nào đó, ông sẽ không phiền lắng nghe câu chuyện của Petrus. Nhưng có lẽ không dùng tiếng Anh thì hay hơn. Ông ngày càng tin rằng tiếng Anh là một phương thức không thích hợp với thực tế của đất nước Nam Phi. Những nghĩa rộng của quy tắc tiếng Anh với các câu dài rắc rối, không có sự ăn khớp, phát âm không rõ ràng và rảnh mạch. Như con khủng long mệt mỏi đang ngâm mình trong bùn, ngôn ngữ của nó cứng nhắc. Bị ép vào trong cái khuôn tiếng Anh, câu chuyện của Petrus sẽ trở nên què quặt, cũ kỹ.

Với ông, Petrus lý tưởng nhất là ở gương mặt, gương mặt và bàn tay của anh ta. Nếu có một thứ được gọi là làm việc cực nhọc thật sự, thì Petrus mang đầy đủ dấu ấn của nó. Một người đàn ông nhẫn nại, đầy năng lượng và kiên cường. Một người nông dân, một paysan, một anh chàng của nông thôn. Một kẻ lập mưu, một kẻ lên kế hoạch và không nghi ngờ gì nữa, còn là một kẻ dối trá, như những người nông dân ở khắp nơi. Lao động cực nhọc thật sự và xảo trá thật sự.

Với âm mưu sau này của Petrus, ông có những nghi ngờ riêng. Petrus sẽ không hài lòng khi mãi mãi đi cày trên 1 héc-ta rưỡi mảnh đất của mình. Lucy có thể tồn tại lâu hơn những người bạn hippy, du mục của con bé, nhưng với Petrus thì con bé vẫn còn ngây thơ lắm: một kẻ nghiệp dư, một kẻ nhiệt tình với cuộc sống ruộng đồng hơn là một nông dân đích thực. Petrus sẽ thích được tiếp quản cả mảnh đất của Lucy. Tiếp theo sẽ là mảnh đất của Ettinger nữa, hoặc một phần đủ cho anh ta chăn thả bầy gia súc của mình. Ettinger sẽ là quả hạt dẻ cứng đầu hơn. Lucy chỉ là một chốn dừng chân đơn thuần; Ettinger là kiểu nông dân khác, con người của đất, ngoan cường, bám trụ đến cùng với đất. Nhưng rồi vào ngày nào đó, Ettinger rồi sẽ chết, còn con trai ông ta thì đã bỏ đi. Về khía cạnh này thì Ettinger đúng là ngốc nghếch. Một nông dân tốt sẽ phải nghĩ đến chuyện có thật nhiều con trai.

Petrus nuôi dưỡng một hình ảnh tương lai mà trong đó những người như Lucy không có chỗ đứng. Nhưng không cần thiết tạo thêm một kẻ thù như Petrus. Cuộc đời thôn dã luôn luôn là vấn đề xoay quanh những người hàng xóm bày mưu kế chống lại nhau, mong mỏi đối thủ gặp rắc rối, mùa màng thất bại, kiệt quệ tài chính, để rồi trong cơn khủng hoảng ấy, họ lại sẵn sàng chìa bàn tay giúp đỡ.

Lý giải tồi tệ nhất, đen tối nhất sẽ là Petrus có dính líu đến ba tên lạ mặt kia nhằm dạy cho Lucy một bài học, đổi lại là những gì chúng cướp được. Nhưng ông không thể tin vào điều đó, như thế quá đơn giản. Ông nghi ngờ sự thật đích thực còn sâu hơn thế - ông suy nghĩ để tìm từ đúng - nhân loại học, thứ gì đó sẽ phải mất vài tháng để mò xuống tận đáy, mất vài tháng kiên nhẫn, thong thả nói chuyện với hàng tá người, và những văn phòng của người phiên dịch.

Mặt khác, ông thực sự tin rằng Petrus biết trước chuyện sẽ diễn ra; ông tin rằng Petrus có thể đã cảnh báo Lucy từ trước. Đó là lý do tại sao ông không bỏ mặc chủ đề này. Đó là lý do tại sao ông tiếp tục đay nghiến Petrus.

Petrus tháo hết nước khỏi bể chứa bằng bê tông và dọn sạch tảo. Đó là công việc chẳng dễ chịu gì. Tuy nhiên, ông vẫn đề nghị được giúp Petrus một tay. Hai chân đi đôi ủng cao su chật chội của Lucy, ông trèo xuống bể nước, cẩn thận bước chân trên đáy bể trơn trượt. Ông với Petrus cùng nhau làm việc, lau chùi, cọ rửa và nạo vét bùn. Một lúc sau, ông phá vỡ sự im lặng.

“Cậu biết không, Petrus,” ông nói, “tôi thấy rất khó tin rằng những kẻ đã tới đây là người lạ. Tôi không tin rằng chúng tới đây từ nơi nào đó, làm việc chúng đã làm rồi biến mất dạng như những hồn ma. Rằng cái lý do chúng nhắm vào bọn tôi chỉ đơn giản vì bọn tôi là những người dân da trắng đầu tiên chúng gặp ngày hôm đó. Cậu nghĩ sao? Tôi có sai không?”

Petrus hút tẩu thuốc, một cái tẩu cũ kỹ với ống tẩu có hình móc câu và chiếc nắp bạc nhỏ phía trên cối. Lúc này, anh ta đứng thẳng dậy, lấy cái tẩu từ túi áo ra, mở nắp, cho thuốc vào trong cối và ngậm tẩu thuốc chưa châm. Anh ta trầm ngâm nhìn chằm chằm vách thùng, đưa mắt lên nhìn những ngọn đồi, nhìn khắp vùng đất rộng rãi. Nét mặt anh ta cực kỳ thanh thản.

“Cảnh sát chắc phải đi tìm chúng,” cuối cùng anh ta nói. “Cảnh sát chắc phải đi tìm chúng và tống chúng vào tù. Đó là công việc của cảnh sát.”

“Nhưng cảnh sát sẽ không tìm chúng nếu không được ai giúp đỡ. Những kẻ này biết quá rõ về trạm kiểm lâm. Tôi tin rằng chúng biết cả Lucy. Nếu chúng hoàn toàn là những kẻ xa lạ trong chuyện này thì làm sao chúng biết?”

Petrus chọn cách không xem đây như một câu hỏi. Anh ta lại nhét tẩu vào túi, cất xẻng đi rồi cầm lấy cái chổi.

“Đây không đơn giản là một vụ trộm, Petrus,” ông khăng khăng. “Chúng không tới đó chỉ để trộm. Chúng không đến chỉ nhằm mục đích làm thế này với tôi.” Ông chạm vào những dải băng, chạm vào miếng che mắt. “Chúng tới còn để làm một việc khác nữa. Cậu hiểu ý tôi muốn nói gì, hoặc nếu không biết chắc chắn thì cậu có thể đoán ra được. Sau khi làm xong việc chúng cần làm, cậu không thể mong đợi Lucy sẽ bình tĩnh sống tiếp cuộc sống của mình như trước kia. Tôi là cha của Lucy. Tôi muốn những kẻ này phải bị bắt, phải ra trình diện trước pháp luật và bị trừng phạt. Tôi có sai không? Yêu cầu công lý của tôi có sai không?”

Giờ ông không quan tâm liệu mình có moi được gì từ Petrus hay không, ông chỉ muốn lắng nghe thôi.

“Không, ông không hề sai.”

Một làn sóng giận dữ tràn qua khắp người ông, đủ mạnh để khiến ông kinh ngạc. Ông nhặt cái xẻng của mình lên, xúc cả một dải bùn và cỏ dại từ dưới đáy bể, hắt chúng qua vách bể. Mày đang khiến bản thân chìm trong cơn tức tối đấy, ông khiển trách bản thân: Dừng lại! Thế nhưng lúc này, ông những muốn túm lấy cổ áo Petrus. Hẳn ông rất muốn nói với Petrus, nếu đó là vợ mày thay vì là con gái tao, mày sẽ không thể phì phèo tẩu thuốc rồi cân nhắc cẩn thận những lời mày nói như thế nữa. Xâm hại: đó chính là từ ông rất muốn moi ra từ miệng Petrus. Phải, đó là xâm hại, ông muốn nghe Petrus nói; đúng, đó là cơn cuồng nộ.

Bên nhau, trong câm lặng, ông và Petrus hoàn thành công việc.Đây là cách ông giết thời gian ở nông trại. Ông giúp đỡ Petrus dọn sạch hệ thống tưới tiêu. Ông bảo vệ khu vườn không bị hủy hoại. Ông chuẩn bị sản phẩm mang ra chợ bán. Ông giúp đỡ Bev Shaw tại phòng mạch. Ông lau nhà, nấu nướng, làm tất cả mọi việc mà Lucy không còn quan tâm nữa. Ông cứ thế bận tối mắt từ sáng đến tối.

Con mắt ông đang lành lại nhanh đến ngạc nhiên: sau chưa đến một tuần là ông có thể nhìn trở lại. Những vết bỏng cần nhiều thời gian hơn một chút. Ông vẫn giữ nguyên lớp băng trên da đầu và miếng băng sau tai. Cái tai vẫn chưa khỏi trông như một con vật thân mềm hồng hồng trần trụi: ông chẳng biết liệu mình đã đủ can đảm hứng chịu ánh mắt dòm ngó khi để lộ nó ra chưa.

Ông sắm một cái mũ để đội tránh nắng, và phần nào đó là để che giấu gương mặt. Ông đã quen với việc trông mình thật lạ lùng, mà còn tệ hơn cả lạ lùng, là ghê tởm - một trong những loài sinh vật đáng thương mà trẻ em hay trêu chọc trên phố. “Sao trông người đàn ông kia tức cười thế ạ?” lũ trẻ hỏi mẹ chúng, và bị bắt phải im miệng.

Ông ngẫu hứng đến các cửa hàng tại Salem khi có thể, chỉ vào các ngày thứ Bảy ông mới vào Grahamstown. Ngay lập tức ông trở thành một kẻ ẩn dật, kẻ ẩn dật nhà quê. Chấm dứt thú lang thang. Cho dù trái tim ông vẫn rộn rã khi yêu và mặt trăng vẫn rực rỡ khi tỏa sáng. Lang thang, yêu đương! Ai mà ngờ ông lại phải chấm dứt những thú vui ấy sớm và bất ngờ như thế:

Ông chẳng có lý do gì để tin những bất hạnh của họ không biến thành chuyện ngồi lê đôi mách lan đến tận Cape Town. Tuy nhiên, ông muốn chắc chắn rằng Rosalind không nghe thấy câu chuyện này bằng phiên bản cắt xén. Đã hai lần ông cố gọi điện cho bà, nhưng không thành công. Lần thứ ba ông gọi điện đến công ty lữ hành nơi bà làm việc. Rosalind đang ở Madagascar, người ta cho biết; ông được cho số fax của một khách sạn tại Antananarivo.

Ông soạn một tin nhắn: “Lucy và anh gặp phải vài chuyện không may. Xe của anh bị trộm, còn xảy ra cả ẩu đả nữa, kết quả anh là bị đập cho một trận. Không có gì nghiêm trọng đâu - cha con anh đều ổn, cho dù có bàng hoàng. Anh nghĩ mình báo cho em biết đề phòng trường hợp có lời đồn đại không hay. Mong rằng em đang có quãng thời gian vui vẻ.” Ông đưa trang giấy này cho Lucy đọc để hỏi ý kiến, rồi đưa cho Bev Shaw gửi đi. Gửi Rosalind tại đất nước Nam Phi đen tối.

Lucy vẫn chưa có chuyển biến gì. Đêm nào cô cũng thức trắng, phàn nàn rằng mình không ngủ được; rồi vào các buổi chiều ông tìm thấy cô ngủ thiếp đi trên xô pha, ngón tay cái cho vào miệng như trẻ con. Cô không còn quan tâm tới đồ ăn nữa; ông đành phải tìm mọi cách dỗ cô ăn, nấu nướng những món không quen thuộc vì cô không chịu ăn thịt.

Đây không phải con người ông muốn trở thành - mắc kẹt ở chốn xa xôi, tránh né những loài ác quỷ, chăm sóc cô con gái, cố duy trì kế sinh nhai đang chết dần. Cho dù có trở thành kiểu con người nào đi nữa, ông cũng phải gồng mình lên, phải vận dụng bằng hết sức mạnh. Ở đây ông đang đánh mất mình ngày qua ngày.

Những con ác quỷ không buông tha ông. Bản thân ông mơ những cơn ác mộng, trong đó, ông nuốt cả một cái giường đầy máu, hoặc thở hổn hển, gào thét không ra tiếng, chạy trốn một người đàn ông có gương mặt như con diều hâu, như mặt nạ Benjamin, như Thoth. Một đêm, nửa mộng du nửa loạn trí, ông vứt hết mọi thứ trên giường mình xuống, thậm chí lật hết cả đệm lên, chỉ để tìm kiếm những vết máu.

Vẫn còn đó dự án Byron. Vẫn còn những cuốn sách ông đã mua từ Cape Town, hai cuốn sách về những lá thư duy nhất còn lại - phần còn lại nằm trong cốp chiếc xe bị trộm. Thư viện công cộng tại Grahamstown chẳng có nhiều lựa chọn ngoài những bài thơ được tuyển chọn. Nhưng ông có cần tiếp tục đọc không? Ông còn muốn biết thêm gì ngoài chuyện Byron và những người bạn thân của ông ta giết thời gian tại Ravenna cổ xưa? Liệu lúc này ông có thể sáng tạo ra một Byron giống Byron nhất không, còn cả Teresa nữa?

Nói thật, ông đã trì hoãn việc này suốt mấy tháng rồi: những lúc ngồi đối mặt với trang giấy trắng, viết lên nốt nhạc đầu tiên, xem xem giá trị của mình là gì. In hằn trong tâm trí ông là những đoạn trích màn song ca của những cặp tình nhân, của những giọng ca chính, của giọng nữ cao và nam trầm, chúng câm lặng xoắn xuýt vào nhau và lao vút qua nhau như lũ rắn. Giai điệu không có khúc cao trào; lời thì thầm của những thanh âm hèn hạ trên các bậc cầu thang cẩm thạch; và giữa thanh âm rộn ràng làm nền, vút lên giọng nam trung của người chồng nhục nhã. Cuối cùng, liệu bộ ba hắc ám này sẽ được hồi sinh ở đâu: Không phải ở Cape Town mà tận Kaffaria cổ xưa ư?