Cả sáng hôm sau, Lucy tránh mặt ông. Cuộc gặp gỡ cô hứa hẹn với Petrus không diễn ra. Thế rồi, vào một buổi chiều, chính Petrus gõ lên cửa sau, theo đúng kiểu đến vì công việc như thường lệ, chân đi ủng và mặc đồ lao động liền quần. Đến lúc đặt các đường ống rồi, anh ta nói. Anh ta muốn đặt đường ống PVC từ con đập tích nước đến vị trí căn nhà mới của anh ta, cách khoảng hai trăm mét. Anh ta hỏi có thể mượn dụng cụ và nhờ David giúp anh ta lắp máy điều tiết được không.
“Tôi chẳng biết gì về máy điều tiết hết. Cũng chẳng biết gì về hệ thống ống nước đâu.” Ông không có tâm trạng tỏ ra hữu ích với Petrus.
“Không phải hệ thống ống nước,” Petrus nói. “Mà là đặt đường ống. Chỉ đặt đường ống thôi.”
Trên đường tới đập, Petrus huyên thuyên về các loại máy điều tiết khác nhau, các van tăng áp, các mối nối; vừa thốt ra những lời này, anh ta vừa vung tay mạnh mẽ, phô trương sự hiểu biết. Anh ta nói đường ống mới sẽ phải đi qua mảnh đất nhà Lucy, thật tốt vì cô ấy đã cho phép. Cô ấy rất “tân tiến.”
“Cô ấy là một quý bà tân tiến, không lạc hậu chút nào cả.”
Về bữa tiệc, về thằng nhóc với đôi mắt bập bùng ánh lửa, Petrus lại chẳng nói gì. Cứ như thể chẳng có chuyện gì xảy ra hết.
Ông sớm hiểu được vai trò của riêng mình tại con đập. Petrus không phải cần ông cho lời khuyên về lắp đặt đường ống hay hệ thống ống nước mà là để cầm vài thứ, chuyển cho anh ta mấy cái dụng cụ làm việc - thực chất là làm tay sai của anh ta. Vai trò này ông không phản đối. Petrus là một tay thợ giỏi, xem anh ta làm việc đúng là được mở mang tầm mắt. Thứ ông không thích chính là bản thân Petrus. Khi Petrus càng lải nhải về các kế hoạch của mình, ông càng lãnh đạm với anh ta hơn. Hẳn ông sẽ không muốn bị bỏ rơi trên hoang đảo nào đó cùng Petrus. Chắc chắn ông không muốn lấy anh ta. Một tư cách thích thống trị. Nhìn bà vợ trẻ có vẻ hạnh phúc, nhưng ông tự hỏi bà vợ kia sẽ kể câu chuyện gì khi về già.
Cuối cùng, khi thấy kiên nhẫn chừng ấy đã đủ, ông ngắt lời anh ta. “Petrus này,” ông nói, “cái thằng nhóc ở nhà cậu tối qua ấy - tên nó là gì và giờ nó đang ở đâu?”
Petrus bỏ mũ xuống, lau mồ hôi trên trán. Hôm nay, anh ta đội mũ lưỡi trai có huy hiệu của công ty Bến cảng & Đường sắt Nam Phi bằng bạc. Dường như anh ta có cả một bộ sưu tập mũ lưỡi trai.
“Ông biết không,” Petrus đáp, nhăn nhó, “David, chuyện ông nói rằng thằng nhóc này là một tên trộm rất khó nghe đấy. Nó rất giận dữ khi ông gọi nó là một thằng trộm. Nó đang đi nói với mọi người như thế. Còn tôi, tôi là người đảm bảo mọi thứ ổn thỏa. Thế nên chuyện này cũng rất khó khăn với tôi.”
“Tôi không có ý định lôi cậu vào vụ nảy, Petrus. Cứ cho tôi biết tên họ và tung tích của thằng nhóc để tôi gửi thông tin này cho cảnh sát. Sau đó, chúng ta có thể mặc kệ cảnh sát điều tra đưa nó cùng đồng bọn ra trước công lý. Cậu sẽ chẳng liên quan gì đâu, tôi sẽ không để cậu bị dính líu gì đâu. Đó sẽ là vấn đề của pháp luật.”
Petrus vươn vai, ngẩng mặt lên đón ánh mặt trời. “Nhưng bảo hiểm sẽ trả cho ông một chiếc xe mới.”
Là một câu hỏi? Hay một lời tuyên bố? Petrus đang chơi trò gì vậy? “Bảo hiểm sẽ không sắm xe mới cho tôi đâu,” ông giải thích, cố gắng kiên nhẫn. “Giả sử giờ tôi không bị phá sản vì tất cả những thằng trộm xe ở đất nước này, bảo hiểm cũng chỉ trả tôi phần trăm theo ý họ muốn tính trên giá trị của con xe cũ đó. Sẽ không đủ cho tôi mua xe mới. Dù sao thì vẫn phải theo nguyên tắc.
Chúng ta không thể để mặc các công ty bảo hiểm đi tìm công lý được. Đó không phải việc của họ.”
“Nhưng ông sẽ không lấy được con xe cũ từ tay thằng nhóc này. Nó không thể trả xe cho ông được. Nó không biết xe của ông giờ đang ở đâu, biến mất rồi. Tốt nhất là ông mua chiếc xe mới bằng tiền bảo hiểm, thế là ông sẽ lại có xe.”
Thế quái nào mà ông lại lâm vào ngõ cụt thế nhỉ? Ông cố thử cách khác. “Petrus, cho tôi hỏi cậu một câu, cậu có quan hệ gì với thằng nhóc này không?”
“Và tại sao,” Petrus nói tiếp, tảng lờ câu hỏi, “ông lại muốn thưa thằng nhóc này với cảnh sát? Nó hẵng còn trẻ con, ông không thể bỏ tù nó được.”
“Nếu nó mười tám tuổi, nó có thể bị xét xử, mười sáu tuổi cũng vậy.”
“Không, không, nó chưa mười tám tuổi đâu.”
“Làm sao cậu biết? Tôi trông nó như mười tám tuổi rồi, thậm chí còn hơn ấy.”
“Tôi biết, tôi biết! Nó vẫn còn trẻ con, nó không thể đi tù được, đó là luật, ông không thể bỏ tù trẻ con, ông phải tha cho nó!”
Với Petrus, có vẻ như cuộc tranh luận đã xong. Anh ta nặng nề quỳ một chân xuống và bắt đầu tạo khớp nối trên ống xả.
“Petrus, con gái tôi muốn làm người hàng xóm tốt - một công dân tốt và một hàng xóm tốt. Con bé yêu thích Eastern Cape. Nó muốn sống cả cuộc đời ở đây, nó muốn kết bạn với tất cả mọi người. Nhưng làm sao con bé có thể làm thế nếu nó có nguy cơ bị tấn công vào bất kỳ lúc nào, bởi những kẻ sau đó bỏ đi mà chẳng bị làm sao? Chắc chắn là cậu hiểu!”
Petrus đang vất vả lắp khớp nối. Làn da trên hai bàn tay anh ta hiện ra những vết xước gồ ghề, hằn sâu; khi làm việc anh ta khẽ gầm gừ; chẳng có dấu hiệu cho thấy anh ta nghe thấy ông nói.
“Lucy an toàn ở đây,” bỗng anh ta lên tiếng. “Không sao đâu. Ông có thể để cô ấy ở đây, cô ấy an toàn mà.”
“Nhưng con bé không an toàn, Petrus! Rõ ràng là thế! Cậu biết chuyện gì đã xảy ra ở đây vào ngày hai mươi mốt.”
“Vâng, tôi biết đã xảy ra chuyện gì. Nhưng giờ mọi chuyện ổn cả rồi.”
“Ai nói mọi chuyện ổn rồi?”
“Tôi nói.”
“Cậu nói? Cậu sẽ bảo vệ con bé à?”
“Tôi sẽ bảo vệ cô ấy.”
“Lần trước cậu đã không bảo vệ con bé.”
Petrus bôi thêm dầu nhờn lên ống.
“Cậu nói cậu biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng lần trước cậu đã không bảo vệ con bé,” ông nhắc lại. “Cậu đã bỏ đi, sau đó ba thằng khốn kia xuất hiện, và giờ có vẻ như cậu là bạn bè với một tên trong số chúng. Thế tôi nên rút ra kết luận kiểu gì đây?”
Lời buộc tội Petrus gần như đã nằm sẵn trên môi ông rồi. Nhưng tại sao ông không nói ra?
“Thằng nhóc không có tội” Petrus nói. “Nó không phải là tội phạm. Thằng nhóc không phải là kẻ trộm.”
“Tôi không chỉ đang nói về tội trộm cắp đâu. Còn một tội ác khác nữa đấy, một tội ác nặng nề hơn nhiều. Cậu nói cậu biết chuyện gì đã xảy ra. Cậu phải hiểu tôi muốn nói gì.”
“Nó không có tội. Nó hẵng còn quá trẻ. Đó chỉ là một sai lầm lớn.”
“Cậu biết à?”
“Tôi biết.”
Ống đã vào khớp. Petrus gấp mấy cái kẹp, siết chặt lại ống, đứng dậy, duỗi thẳng lưng. “Tôi biết. Tôi đã nói với ông rồi. Tôi biết.”
“Cậu biết. Cậu biết được tương lai. Tôi có thể nói sao nhỉ? Cậu đã nói. Cậu còn cần tôi ở đây nữa không?”
“Không, giờ thì mọi việc dễ rồi, tôi chỉ việc kéo ống vào thôi.”
Bất chấp Petrus tin tưởng vào ngành bảo hiểm, chẳng có ai ủng hộ khiếu nại của ông. Không có xe, ông như bị mắc kẹt trên cánh đồng.
Vào một trong những buổi chiều tại phòng mạch, ông trút hết nỗi lòng với Bev Shaw. “Lucy và tôi không còn thân thiết nữa rồi,” ông nói. “Chẳng có gì lạ lùng trong chuyện đó cả, tôi nghĩ vậy. Bố mẹ và con cái vốn chẳng thể chung sống cùng nhau. Nếu bình thường thì lúc này tôi hẳn sẽ dọn ra ngoài mà ở, quay về Cape Town. Nhưng tôi không thể bỏ Lucy ở lại trang trại một mình. Con bé không an toàn. Tôi đang cố thuyết phục con bé bàn giao hết công việc lại cho Petrus rồi nghỉ ngơi đi. Nhưng con bé sẽ chẳng buồn nghe tôi.”
“Ông phải buông tay cho con trẻ tự bơi thôi, David. Ông không thể cứ trông chừng cho Lucy mãi mãi được.”
“Tôi để mặc Lucy từ lâu rồi đấy chứ. Tôi chính là người cha ít sự quan tâm nhất. Nhưng tình thế hiện tại khác rồi. Lucy rõ ràng đang gặp nguy hiểm. Chúng ta đã được chứng kiến rồi.”
“Rồi sẽ ổn cả thôi. Petrus sẽ che chở cho con bé.”
“Petrus á? Hắn thì được lợi ích gì khi che chở cho con bé chứ?”
“Ông đánh giá Petrus thấp quá. Cậu ta làm việc quần quật như nô lệ, gánh vác trang trại trồng rau cho Lucy. Không có cậu ta thì Lucy hẳn sẽ chẳng được như bây giờ đâu. Tôi không nói con bé nợ cậu ta mọi thứ, nhưng con bé nợ rất nhiều đấy.’
“Có thể là thế. Câu hỏi là Petrus nợ con bé cái gì?”
“Petrus là một ông bạn khá đấy. Ông có thể trông cậy vào cậu ta.”
“Trông cậy ở Petrus ư? Bởi vì hắn ta để râu, hút tẩu và mang gậy mà bà nghĩ Petrus là một thằng cha da đen theo phong cách cổ điển. Nhưng chẳng giống thế chút nào. Thằng cha da đen theo phong cách cổ điển còn lâu mới đến lượt Petrus, huống hồ lại còn là ông bạn khá đấy. Theo tôi thấy, Petrus đang quấy rối Lucy để tống cổ con bé đi. Nếu bà muốn bằng chứng, thì chẳng phải nhìn đâu quá xa ngoài chuyện đã xảy ra với Lucy và tôi. Có thể đó không phải là âm mưu của Petrus, nhưng chắc chắn hắn ta đã mắt nhắm mắt mở, chắc chắn hắn đã không cảnh báo chúng tôi, chắc chắn hắn đã cố gắng không có mặt ở vùng lân cận.”
Sự sôi nổi của ông khiến Bev Shaw kinh ngạc. “Tội nghiệp Lucy,” bà thì thầm, “con bé đã phải chịu đựng quá nhiều!”
“Tôi biết Lucy đã phải chịu đựng những gì. Tôi đã ở đó.”
Bà ta trố mắt nhìn xoáy vào ông. “Nhưng ông không có mặt ở đó, David. Con bé nói với tôi thế. Ông không có mặt ở đó.”
Bố không có mặt ở đó. Bố không biết đã xảy ra chuyện gì. Ông bối rối. Căn cứ theo Bev Shaw, căn cứ theo Lucy, ông đã không có mặt ở đâu cơ? Trong căn phòng nơi những kẻ đột nhập đang trút xuống những cơn phẫn nộ của chúng ư? Chúng có nghĩ rằng ông không biết cưỡng hiếp là gì không? Chúng có nghĩ ông không phải chịu đựng điều đó với con gái mình không? Ông còn có thể chứng kiến điều gì nữa ngoài những gì mình có thể tưởng tượng ra? Hay chúng có nghĩ rằng, liên quan đến vụ cưỡng hiếp, chẳng có người đàn ông nào có mặt đúng chỗ người phụ nữ cần? Cho dù câu trả lời có là gì, ông cũng tức giận, tức giận khi bị đối xử như một kẻ ngoài cuộc.
Ông mua một chiếc ti vi nhỏ thay thế cho cái bị mất trộm. Vào những buổi tối, sau bữa tối, ông cùng Lucy ngồi cạnh nhau trên xô-pha xem tin tức, rồi nếu họ có thể chịu đựng được thì sẽ xem cả mục giải trí.
Đúng là theo cả ông lẫn Lucy, cuộc viếng thăm đã kéo dài quá lâu. Ông đã phát ốm với cuộc sống rày đây mai đó, phát ốm vì lúc nào cũng phải lắng nghe tiếng sỏi lạo xạo trên con đường mòn. Ông muốn một lần nữa có thể ngồi xuống bàn làm việc của mình, ngủ trên chiếc giường của mình. Nhưng Cape Town cách xa đây lắm, gần như một vùng khác hoàn toàn. Bất chấp lời khuyên của Bev, bất chấp những cam đoan của Petrus, bất chấp tính ương ngạnh của Lucy, ông không sẵn sàng bỏ rơi con gái mình. Đây là nơi ông sống, trong hiện tại: vào lúc này, ở nơi này.
Thị lực con mắt bên kia của ông đã hồi phục hoàn toàn. Da đầu của ông đang lành dần; ông không cần phải thay băng và bôi dầu nữa. Chỉ còn cái tai vẫn cần phải chăm sóc hàng ngày. Thế nên thời gian thực sự sẽ chữa lành tất cả. Có lẽ Lucy cũng đang được chữa lành, hoặc nếu không lành thì con bé đang cố quên đi, bao bọc ngày càng kín quanh hồi ức ngày hôm đó bằng mô sẹo, bọc kín lấy nó và phong ấn nó. Để rồi một ngày nào đó, con bé có thể nói, “Cái ngày chúng ta bị cướp,” và chỉ còn nghĩ về nó như cái ngày họ bị cướp.
Ông cố gắng dành cả ngày ở ngoài không vào nhà, cho Lucy không gian tự do hít thở. Ông làm việc trong vườn; khi mệt mỏi, ông ngồi ở con đập, quan sát gia đình nhà vịt trồi lên hụp xuống, nghiền ngẫm về dự án Byron.
Dự án đang giậm chân tại chỗ. Tất cả những gì ông có thể nắm bắt về nó là các mảnh vụn. Những từ đầu tiên của màn một vẫn không chịu đến với ông; những nốt nhạc đầu tiên vẫn lảng tránh ông như những làn khói. Thi thoảng ông e sợ rằng các nhân vật trong truyện, những người suốt hơn một năm qua đã trở thành những người bạn ma của ông, đang bắt đầu phai mờ dần. Ngay cả nhân vật lý tưởng nhất trong số họ, Margarita Cogni, với những màn tấn công bằng giọng nữ trầm, chửi mắng con vợ dâm đãng của Byron, Teresa Guiccioli khiến ông nhức nhối mỗi khi nghe, cũng đang vuột khỏi tay ông. Những nhân vật mất mát khiến ông chìm trong tuyệt vọng, tuyệt vọng như sắc màu xám xịt, thậm chí và không đáng kể lắm, ở một chiều lớn hơn, tuyệt vọng như một cơn nhức đầu.
Ông thường xuyên bỏ đến phòng mạch Phúc lợi Động vật, sẵn sàng làm bất cứ công việc gì có thể làm mà không cần kỹ năng: cho động vật ăn, dọn dẹp, quét tước.
Những động vật họ chăm sóc tại phòng mạch chủ yếu là chó, hiếm hơn thì là mèo; với vật nuôi, Làng D có vẻ như sở hữu cả một kho kiến thức thú y riêng, cả một dược điển riêng và những thầy thuốc riêng. Lũ chó được đưa đến mắc đủ thứ bệnh từ sài sốt, gãy chân, những vết cắn nhiễm độc, ghẻ lở, thờ ơ khi chăm sóc, u ác tính hoặc lành tính, đến tuổi già, chế độ dinh dưỡng không đầy đủ và ký sinh trùng trong ruột, nhưng hầu hết vẫn là khả năng sinh sản của chúng. Những ca như thế này đơn giản là quá nhiều. Khi đưa chó đến người ta đều không dám nói thẳng rằng: “Tôi mang con chó này đến cho bà giết đấy,” nhưng đó là điều được mong đợi; rằng họ sẽ tiêu hủy nó, khiến nó biến mất, gửi nó vào miền quên lãng. Thực ra, thứ được đề nghị là Lösung (người Đức luôn sử dụng từ trừu tượng trống rỗng thích hợp): nghĩa là bay hơi, như cồn bay hơi từ nước, không còn cặn, không còn dư vị.
Thế nên vào các buổi chiều Chủ nhật, cửa phòng mạch khóa kín trong khi ông giúp Bev Shaw cho bay hơi mấy con chó vô dụng trong tuần. Ông lần lượt lôi từng con ra khỏi lồng phía sau phòng mạch rồi dắt hoặc mang chúng vào phòng mổ. Với mỗi con chó, vào trong những phút cuối cùng cuộc đời nó, Bev đều cực kỳ chăm chút, vuốt ve, nói chuyện với nó, khiến nó thoải mái khi ra đi. Nếu con chó cảm thấy không bị mê hoặc, mà chuyện này khá thường xuyên, thì đó là do sự hiện diện của ông: ông tỏa ra cái mùi chúng không thích (chúng có thể đánh hơi những suy nghĩ của ông đấy), cái mùi của sự nhục nhã. Tuy nhiên, ông là người giữ chặt con chó khi mũi kim tiêm vào ven của nó, thuốc chảy vào trái tim nó, vào miếng kim loại ở hai chân nó và đôi mắt nó lờ đờ.
Ông tưởng rằng rồi mình sẽ quen với nó. Nhưng không phải thế. Ông càng trợ giúp nhiều vụ giết động vật, ông càng dễ bị kích động hơn. Một buổi tối Chủ nhật, lái xe về nhà bằng chiếc xe tải của Lucy, ông thực sự đã phải dừng xe ở lề đường để trấn tĩnh lại. Những giọt nước mắt tuôn như mưa xuống má ông, không thể kiềm chế, hai bàn tay ông run bắn.
Ông không hiểu chuyện gì đang xảy ra với mình. Cho đến giờ, ông ít nhiều lãnh đạm với động vật. Cho dù một cách thực tế, ông không cổ vũ sự tàn bạo, nhưng ông không thể đoan chắc bản chất của mình là tàn bạo hay nhân từ. Đơn giản, ông chẳng là gì cả. Ông cho rằng những người vì bổn phận công việc mà phải tàn bạo, những người làm việc trong các lò mổ, chẳng hạn, linh hồn họ dần hình thành những lớp mai cứng. Thói quen khiến con người trở nên sắt đá: trong một số trường hợp nó phải như thế, nhưng với trường hợp của ông thì không. Có vẻ ông không thể nào cứng rắn được.
Những chuyện xảy ra ở lò mổ ám ảnh cả con người ông. Ông tin rằng lũ chó biết thời khắc ấy của chúng đã đến. Bất chấp quy trình ấy diễn ra trong câm lặng và không đau đớn, bất chấp những suy nghĩ tốt đẹp mà Bev Shaw nghĩ và ông cố gắng nghĩ, bất chấp những cái túi kín khí đựng các xác chết mới, lũ chó ở ngoài sân vẫn đánh hơi được chuyện gì đang diễn ra bên trong. Chúng cụp tai xuống, đuôi chúng rũ xuống, như thể chúng cũng cảm thấy sự ô nhục của cái chết, bị trói cứng hai chân, bị kéo lê, xô đẩy hoặc bị vác đến ngưỡng cửa. Trên mặt bàn, vài con quay hết sang trái rồi sang phải, đớp điên loạn, vài con rên rỉ ai oán; nhưng chẳng con nào nhìn thẳng vào cây kim trong tay Bev, cái thứ mà làm sao đó, chúng biết nó sắp làm hại chúng một cách khủng khiếp.
Tồi tệ nhất là những con hít ngửi ông và cố gắng liếm tay ông. Ông vốn không bao giờ thích bị liếm, phản ứng bốc đồng đầu tiên của ông là bỏ chạy. Tại sao phải giả vờ thân thiết trong khi thực ra mày là một kẻ sát nhân? Nhưng rồi ông nhượng bộ. Tại sao một sinh vật với cái chết đang treo lơ lửng trên đầu lại phải cảm thấy ông lảng tránh cú đụng chạm của nó, như thể cú chạm ấy ghê tởm lắm? Thế nên ông để mặc chúng liếm tay mình, nếu chúng muốn, hệt như Bev Shaw vuốt ve chúng và hôn chúng nếu chúng để mặc bà ta làm thế.
Ông hy vọng mình không phải kẻ đa cảm. Ông cố gắng không bày tỏ tình cảm với lũ động vật mình sát hại, hoặc với Bev Shaw. Ông lảng tránh nói với bà ta rằng, “Tôi không biết sao bà làm được thế,” chỉ vì không muốn nghe bà ta đáp lại rằng, “Ai đó phải làm thế.” Ông không bác bỏ khả năng rằng ở tầng sâu nhất, Bev Shaw có thể không phải là một thiên thần tự do mà là một con quỷ, rằng ẩn dưới tình cảm bà ta thể hiện ra ngoài có thể che giấu một trái tim dai ngoách của đồ tể. Ông cố gắng giữ cho mình một tư duy cởi mở.
Vì Bev Shaw là người đâm kim, nên ông lãnh trách nhiệm tiêu hủy các xác động vật. Sáng sáng sau mỗi buổi tiêu hủy, ông lái chiếc xe tải chất đầy xác chết đến các bãi đất của Bệnh viện Settlers, đến lò thiêu rồi quẳng những xác chết bọc trong các túi đen vào ngọn lửa.
Sẽ đơn giản hơn nhiều nếu vận chuyển các cái túi đến lò thiêu ngay sau khi kết thúc buổi hạ sát, rồi để chúng ở đó cho nhân viên lò đốt giải quyết. Nhưng như thế cũng đồng nghĩa bỏ mặc chúng nằm lẫn với đống rác rưởi cuối tuần; với chất thải từ các phòng khoa bệnh viện, những thứ kinh tởm chất đống bên đường, đồ phế thải hôi thối từ xưởng thuộc da - sự pha trộn tùy tiện và khủng khiếp. Ông chưa sẵn sàng xúc phạm các loài vật đến mức đấy.
Thế nên vào những buổi tối Chủ nhật, ông chất túi lên phía sau xe tải của Lucy chở về trang trại, đỗ xe ở đấy qua đêm, rồi sáng thứ Hai mang đến các bãi đất ở bệnh viện. Tại đó, chính tay ông dỡ xuống, từng túi một, chất lên chiếc xe đẩy cút kít, khởi động cơ cấu đưa chiếc xe đẩy qua cánh cổng sắt tiến vào ngọn lửa, rồi kéo cần dốc sạch hết những gì trên xe xuống, rồi lại kéo xe đẩy ra, trong khi các nhân viên lẽ ra phải làm việc này chỉ đứng nhìn.
Vào ngày thứ Hai đầu tiên của mình, ông bỏ lại cái xe ở đấy cho bọn họ làm tiếp phần việc. Hiện tượng căng cứng tử thi khiến xác động vật đông cứng lại qua đêm. Những cẳng chân đã chết vướng vào các thanh sắt của xe đẩy, và khi xe quay về từ hành trình đến lò thiêu, con chó bị đưa trở ra, cháy đen nhẻm nhe cả răng, lông cháy khét, cái túi bằng chất dẻo đã cháy hết. Sau một lúc, đám nhân viên bắt đầu lấy mặt dưới của xẻng đập đập xuống mấy cái túi trước khi chất lên xe, để đập gãy những cái cẳng cứng ngắc của con vật. Phải đến lúc này ông mới can thiệp và tự làm lấy.
Lò thiêu được tiếp liệu bằng than đá anthracit, khí được cung cấp qua các ống thông hơi bằng quạt điện; ông đoán rằng lò thiêu này được sản xuất từ những năm 1950, khi chính cái bệnh viện này được xây dựng. Lò hoạt động sáu ngày một tuần, từ thứ Hai đến thứ Sáu. Ngày thứ Bảy, lò nghỉ hoạt động. Khi đám nhân viên đến làm việc, đầu tiên họ phải khều ra tro than từ ngày hôm trước, sau đó mới châm lửa. Vào chín giờ sáng, nhiệt độ ở buồng trong tăng lên đến 1.000 độ C, đủ làm tan chảy cả xương. Ngọn lửa được tiếp than cháy đến giữa buổi sáng; phải mất cả buổi chiều lò mới nguội.
Ông không biết tên đám nhân viên và họ cũng chẳng biết tên ông. Với họ, ông chỉ là người bắt đầu đến vào những ngày thứ Hai mang theo mấy cái túi từ phòng mạch Phúc lợi Động vật, kể từ đó, ông càng ngày càng đến sớm hơn. Ông đến, làm việc của mình, rồi ra về; ông chẳng tạo nên một phần của cái xã hội, mà bất chấp cả hàng rào dây thép gai, cánh cổng cài khóa móc và thông báo viết bằng ba thứ tiếng, lò thiêu này chính là cái trục.
Vì hàng rào này từ lâu đã bị cắt đi; cánh cổng và thông báo đơn giản là bị thờ ơ. Buổi sáng, khi những người hộ lý đến xách theo mấy cái túi đầu tiên đựng rác thải y tế, có một số phụ nữ và trẻ em đợi chờ nhặt túi tìm xy lanh, kim băng, bông băng còn có thể giặt lại được, bất kỳ cái gì có thể đem ra chợ bán được, nhưng đặc biệt là thuốc, để có thể bán cho nhiều cửa hàng hoặc bán trên các con phố. Có cả những người lang thang nữa, ban ngày họ vật vờ quanh các bãi đất bệnh viện, đêm xuống họ dựa lưng vào các bức tường của lò thiêu ngủ, thậm chí có lẽ họ ngủ cả trong đường hầm cho ấm.
Ông cố gắng tránh xa sự cô độc kiểu đó. Nhưng khi ông tới, thì họ đã ở đó; và nếu những gì ông mang tới bãi thải không khiến họ hứng thú, thì chẳng qua là vì những bộ phận cơ thể đã chết của con chó không thể đem bán cũng như chẳng thể ăn.
Tại sao ông đảm nhận công việc này? Để giảm nhẹ gánh nặng cho Bev Shaw ư? Nếu thế thì chỉ cần vứt mấy cái túi ở bãi thải rồi lái xe về là đủ rồi. Vì lũ chó ư? Nhưng chúng chết rồi; mà chó thì còn biết gì đến danh dự với nhục nhã chứ?
Thế thì chỉ vì bản thân ông thôi. Vì ý tưởng của ông về thế giới này, cái thế giới mà người ta không dùng xẻng đập nát xác động vật để dễ bề hỏa thiêu.
Lũ chó được mang tới phòng mạch vì không ai muốn có chúng nữa: bởi vì chúng quá đông. Đó là nơi ông bước vào cuộc đời chúng. Ông có thể không phải là vị cứu tinh của chúng; những kẻ vốn quá ít ỏi so với chúng, nhưng ông sẵn sàng chăm sóc chúng một khi chúng không thể, tuyệt đối không thể tự chăm sóc chính mình, một khi ngay cả Bev Shaw cũng muốn phủi tay. Một kẻ chăm chó, Petrus đã từng gọi chính mình như thế. Chà, giờ ông đã trở thành một kẻ chăm chó: kẻ làm dịch vụ lễ tang cho chó, kẻ dẫn dắt linh hồn cho chó; một kẻ Hindu bị ruồng bỏ.
Thật hiếu kỳ làm sao khi một kẻ ích kỷ như ông lại dâng hiến cả bản thân mình làm dịch vụ mai táng cho chó. Chắc chắn phải có những cách khác hữu ích hơn để dâng hiến bản thân mình cho thế giới, hoặc nêu ra một ý tưởng cho thế giới. Chẳng hạn, người ta có thể làm việc trong thời gian dài hơn tại phòng mạch. Người ta có thể thuyết phục trẻ em tại bãi thải không nên hít đầy chất độc hại vào cơ thể. Thậm chí có thể ngồi xuống một cách kiên quyết hơn để sáng tác vở nhạc kịch Byron, mà vào lúc bức thiết, có thể được phân tích như một sứ mệnh phụng sự nhân loại.
Nhưng có những người khác làm các công việc này - công việc phúc lợi động vật, công việc phục hồi xã hội, thậm chí là công việc Byron. Ông cứu vớt danh dự cho những xác súc vật bởi vì chẳng còn ai khác đủ ngu ngốc để làm điều đó. Đó chính là kiểu người ông đang trở thành: ngu xuẩn, mất trí, ấm đầu.