Petrus mượn đâu được cái máy kéo không biết, anh ta kết hợp máy kéo với cái máy cày lưỡi quay cũ rích đang nằm rỉ sét phía sau chuồng chó kể từ trước thời của Lucy. Trong vòng vài giờ, anh ta đã cày xong toàn bộ mảnh đất của mình. Tất cả đều được thực hiện một cách rất nhanh nhẹn và tháo vát; tất cả không hề giống châu Phi. Ngày xưa, có thể nói là mười năm trước, anh ta hẳn sẽ phải mất mấy ngày cày bằng tay với mấy con bò.
Đối phó với Petrus tân tiến này, liệu Lucy còn cơ hội nào không? Petrus đã xuất hiện làm người đào đất, người khuân vác và người dẫn nước. Giờ anh ta quá bận rộn với công việc thế này. Lucy biết đi đâu tìm một người vừa đào đất, vừa khuân vác vừa dẫn nước thế này? Nếu đây là một ván cờ, anh ta hẳn sẽ nói rằng Lucy đã bị vượt mặt trên khắp mọi mặt trận. Nếu con bé thông minh, nó sẽ bỏ cuộc: tiếp cận Ngân hàng Đất đai, soạn thảo một kế hoạch, chuyển nhượng trang trại này sang cho Petrus, quay về thế giới văn minh. Con bé có thể mở các trung tâm trông hộ chó ở các vùng ngoại ô; con bé có thể nhận trông thêm cả mèo. Thậm chí con bé có thể trở lại với những gì nó cùng bạn bè đã làm thuở còn là dân hippy: dệt quần áo thổ cẩm, trang trí chai lọ kiểu thổ cẩm, đan rổ kiểu thổ cẩm; bán ngọc trai cho du khách.
Thất bại. Không khó để hình dung Lucy trong vòng mười năm nữa: một phụ nữ nặng nề với những nếp nhăn sầu muộn trên gương mặt, mặc quần áo đã lỗi mốt quá lâu, nói chuyện với bầy thú cưng, ăn cơm một mình. Cuộc sống chẳng nhiều nhặn gì. Nhưng còn tốt hơn việc phải trải qua từng ngày trong nỗi sợ hãi trước cuộc tấn công tiếp theo, khi bầy chó còn lại không đủ để bảo vệ cô, và không còn ai trả lời điện thoại nữa.
Ông đến gần Petrus tại nơi cậu ta đã chọn làm nơi xây nhà mới; trên một gò đất thấp nhìn ra căn nhà trang trại. Nhân viên địa chính đã đến xem, các cọc đánh dấu đã đóng đúng chỗ.
“Không phải cậu tự xây nhà một mình đấy chứ?” ông hỏi.
Petrus cười lặng lẽ. “Không, xây dựng ấy là công việc đòi hỏi kỹ năng,” anh ta đáp. “Lát gạch, trát vữa, tất cả những việc đó ông cần phải có kỹ năng. Tôi sẽ đi đào những con hào. Việc ấy tôi có thể tự làm. Nó không đòi hỏi kỹ năng nhiều lắm, chỉ là việc của một thằng đàn ông. Để đào hào, ông chỉ cần là một thằng con trai thôi.”
Petrus nói ra từ ngữ này với vẻ thích thú thật sự. Anh ta từng là một thằng con trai, nhưng ông thì không. Giờ thì ông có thể đóng vai một thằng bé, như Marie Antoinette có thể đóng vai cô nàng vắt sữa.
Ông vào thẳng vấn đề. “Nếu Lucy và tôi quay về Cape Town, cậu có sẵn sàng thay thế con bé điều hành trang trại không? Chúng tôi sẽ trả lương cho cậu, hoặc cậu có thể làm trên cơ sở phần trăm. Một phần trăm lợi nhuận.”
“Tôi phải tiếp tục điều hành trang trại của Lucy,” Petrus nói. “Tôi phải trở thành quản lý trang trại.” Anh ta phát âm mấy từ này như thể trước kia ông chưa từng nghe, như thể chúng đùng cái xuất hiện trước mặt anh ta như con thỏ nhảy ra từ trong cái mũ.
“Được, chúng tôi sẽ gọi cậu là quản lý trang trại nếu cậu thích.”
“Và Lucy ngày nào đó sẽ quay về.”
“Tôi chắc chắn con bé sẽ quay về. Nó rất gắn bó với trang trại này, không hề có ý định từ bỏ trang trại. Nhưng lúc này, con bé đang có quãng thời gian khó khăn, nó cần phải nghỉ ngơi. Một kỳ nghỉ.”
“Bên bờ biển,” Petrus nói, và mỉm cười, phô ra hàm răng vàng ệch vì khói thuốc.
“Vâng, bên bờ biển, nếu con bé muốn.”
Cái thói ăn nói lửng lơ của Petrus khiến ông bực mình. Từng có lúc ông nghĩ mình có thể làm bạn với Petrus. Giờ thì ông ghê tởm anh ta. Nói chuyện với Petrus chẳng khác gì đấm vào cái bao cát đầy tú ụ. “Theo tôi thấy thì cả hai ta đều không có quyền được hỏi Lucy xem con bé có quyết định nghỉ ngơi hay không,” ông ta nói. “Cả cậu và tôi đều không.”
“Tôi phải làm quản lý trang trại trong bao lâu?”
“Tôi chưa biết, Petrus. Tôi còn chưa bàn với Lucy, mà chỉ đang thăm dò các khả năng, để xem cậu có đồng ý hay không.”
“Và tôi phải làm tất cả mọi việc - cho chó ăn này, trồng rau này, rồi còn phải ra chợ nữa...”
“Petrus, không cần phải lên danh sách như thế. Không còn lũ chó nữa. Tôi chỉ đang hỏi chung chung thôi, nếu Lucy đi nghỉ thì cậu có sẵn sàng chăm sóc trang trại không?”
“Nếu không có xe tải thì làm sao tôi ra chợ được đây?”
“Đó là chi tiết. Chúng ta sẽ thảo luận chi tiết sau. Tôi chỉ muốn một câu trả lời chung chung, có hoặc không.”
Petrus lắc đầu. “Thế thì quá nhiều, quá sức rồi,” anh ta đáp.
Bất ngờ, cảnh sát gọi điện tới, từ viên Trung sĩ Esterhuyse ở Port Elizabeth. Họ đã tìm lại được xe của ông. Nó đang nằm trong sân đồn cảnh sát New Brighton, nơi ông có thể đến nhận diện và mang xe về. Hai tên đã bị bắt.
“Tuyệt thật,” ông nói. “Tôi gần như đã hết hy vọng rồi.”
“Không đâu, thưa ông, sổ ghi án vẫn mở suốt hai năm.”
“Tình trạng chiếc xe thế nào? Còn lái được không?”
“Được ạ, ông có thể lái nó.”
Trong trạng thái phấn khích lạ lùng, ông cùng Lucy lái xe đến Port Elizabeth, sau đó tới New Brighton, nơi theo chỉ dẫn, họ đến phố Van Deventer, tới một căn hộ, đồn cảnh sát trông như pháo đài, bao quanh là một hàng rào cao hai mét, trên cùng là dây thép gai. Những tấm biển ghi rõ cấm đỗ xe trước cổng đồn. Họ đành đỗ xe phía cuối đường.
“Con sẽ đợi trong xe,” Lucy nói. “Con có chắc không?”
“Con không thích chỗ này. Con sẽ đợi.”
Một mình ông đến phòng tiếp tân, được hướng dẫn đi dọc theo một mê cung các hành lang đến Đơn vị Phòng chống Trộm cắp Xe. Trung sĩ Esterhuyse, một người nhỏ bé, béo tốt, tóc vàng, tìm kiếm qua các hồ sơ, sau đó dẫn ông ra sân, nơi vô số xe đang đỗ cạnh nhau san sát. Họ đi suốt mấy hàng xe.
“Các anh đã tìm thấy nó ở đâu?” Ông hỏi Esterhuyse. “Ngay New Brighton này thôi. Ông gặp may đấy.
Thường thì với chiếc Corolla cũ rích như thế, bọn trộm xe hẳn đã mổ tung nó ra lấy phụ tùng rồi.”
“Anh nói là mấy tên đã bị bắt.”
“Hai tên. Tóm được chúng nhờ tin cảnh báo. Tìm thấy nguyên ngôi nhà chứa toàn đồ ăn cắp. Nào ti vi, các đầu video, tủ lạnh; ông có thể hiểu được.”
“Giờ chúng đâu rồi?”
“Chúng được tại ngoại rồi.”
“Chẳng phải sẽ hợp lý hơn sao nếu anh gọi tôi đến trước khi thả chúng ra, để tôi còn nhận diện chứ? Giờ được tại ngoại rồi, bọn chúng sẽ biến mất. Anh biết thế cơ mà.”
Viên trung sĩ kiên quyết im lặng.
Họ dừng lại trước một chiếc Corolla trắng. “Đây không phải xe của tôi,” ông nói. “Xe của tôi có biển số CA. Trong sổ ghi án đã viết rõ rồi.” Ông chỉ vào biển số trên tờ giấy: CA 507644.
“Chúng đã sơn lại, rồi dùng các biển số giả. Chúng đổi biển số luôn ấy mà.”
“Dù thế đi nữa, đây vẫn không phải xe của tôi. Anh mở nó ra được không?”
Viên trung sĩ mở cửa xe. Trong xe phả ra mùi báo chí ẩm ướt và thịt gà rán.
“Xe tôi không có hệ thống âm thanh,” ông nói. “Đây không phải xe của tôi. Anh có chắc là xe của tôi có ở trong bãi này không?”
Họ đã đi hết bãi xe rồi. Không thấy xe ông đâu cả. Esterhuyse gãi đầu. “Tôi sẽ kiểm tra,” anh ta nói. “Chắc phải có nhầm lẫn nào đó. Để lại số của ông cho tôi, có gì tôi sẽ gọi.”
Lucy đang ngồi sau tay lái trên chiếc xe tải, hai mắt nhắm nghiền. Ông gõ lên cửa kính, cô liền mở khóa cửa xe. “Tất cả là nhầm lẫn,” ông nói, nhảy vào xe. “Họ có một chiếc Corolla, nhưng không phải xe của bố.”
“Bố có gặp mấy tên kia không?”
“Mấy tên?”
“Bố bảo có hai tên bị bắt kia mà.”
“Được tại ngoại rồi. Dù sao không phải xe của bố, thế nên dù tên nào có bị bắt cũng không phải là những kẻ ăn cắp xe.”
Một quãng im lặng dài. “Chuyện này có hợp lý không?” cô nói.
Cô khởi động xe, giật mạnh bánh lái.
“Bố không nhận ra con lại mong mỏi chúng bị bắt như thế,” ông nói. Ông có thể nghe thấy điệu châm chọc trong giọng nói của mình nhưng không kịp kiềm lại. “Nếu chúng bị bắt nghĩa là sẽ có phiên tòa và tất cả những gì một phiên tòa đòi hỏi. Con sẽ phải làm chứng. Con sẵn sàng với điều đó chưa?”
Lucy tắt máy. Gương mặt cô đanh lại, cố ghìm những giọt nước mắt.
“Trong trường hợp của con, phiên tòa rất lạnh lẽo. Những người bạn của chúng ta sẽ không bị bắt, với cảnh sát ở cái bang này thì không đâu. Thế nên chúng ta hãy quên chuyện này đi.”
Ông gồng người lên. Ông đang trở thành một kẻ hay cằn nhằn, một kẻ hay làm phiền, nhưng không thể đừng được. “Lucy, giờ thực sự đã đến lúc con phải đối mặt với những lựa chọn của mình. Hoặc con cứ tự nhốt mình trong nhà chứa đầy những hồi ức xấu xa, tiếp tục tự dằn vặt về những gì đã xảy ra với mình, hoặc con bỏ hết chương này lại phía sau lưng và bắt đầu một chương hoàn toàn mới ở nơi khác. Như bố hiểu, đó là những lựa chọn. Bố biết con muốn ở lại, nhưng ít nhất con không muốn bắt đầu một chặng đường mới à? Chẳng nhẽ hai chúng ta không thể nói về chuyện đó một cách sáng suốt hơn hay sao?”
Cô lắc đầu. “Con không thể nói chuyện nữa, David, chỉ là con không thể,” cô đáp, nói nhẹ nhàng, gấp gáp, như thể cô sợ những từ ngữ sẽ khô kiệt. “Con biết mình không được sáng suốt. Con ước gì mình có thể giải thích. Nhưng con không thể. Vì bố là bố còn con là con, con không thể. Con xin lỗi. Và con xin lỗi về cả chiếc xe của bố. Con xin lỗi về sự tuyệt vọng.”
Cô tựa đầu lên hai cánh tay; đôi vai cô trũng xuống khi cô nhượng bộ.
Một lần nữa cảm xúc tràn khắp người ông: vô hồn, lãnh đạm, nhưng ngoài ra còn vô lực, như thể ông đã bị ăn rỗng từ bên trong và chỉ còn lại cái vỏ mục nát của trái tim mình. Ông tự nhủ, ở trong trạng thái này, làm sao người ta có thể tìm từ ngữ, tìm âm nhạc để đi hồi sinh người chết?
Đang ngồi trên vỉa hè cách đó năm thước, một phụ nữ đi dép lê và mặc quần áo rách rưới nhìn họ trừng trừng. Ông đặt một bàn tay lên vai Lucy có ý bảo vệ. Con gái ta, ông nghĩ, con gái yêu hết mực của ta. Là người mà ta có trách nhiệm phải dẫn đường. Là người mà rồi một ngày nào đó sẽ phải dẫn đường cho ta.
Bà ta có thể ngửi thấy những suy nghĩ của ông không?
Chính ông đảm nhận việc lái xe. Đang trên đường về nhà, ông ngạc nhiên khi Lucy lên tiếng. “Chuyện đó riêng tư lắm,” cô nói. “Chúng làm việc ấy vì mối tư thù cá nhân. Chính điều ấy khiến con choáng váng hơn bất kỳ điều gì. Phần còn lại... thì phải chờ thôi. Nhưng tại sao chúng lại căm thù con đến vậy? Con có bao giờ để ý tới chúng đâu.”
Ông đợi được nghe thêm, nhưng trong một lúc, chẳng còn gì nữa. “Lịch sử đang nói thông qua chúng,” cuối cùng ông gợi ý. “Một lịch sử sai lầm. Cứ nghĩ theo hướng đó đi nếu nó giúp được. Trông có thể là chuyện cá nhân thôi nhưng không phải đâu. Nó bắt nguồn từ những tổ tiên.”
“Cũng chẳng dễ dàng hơn đâu ạ. Cú sốc đơn giản là sẽ không tan đi. Ý con là cú sốc khi mình bị căm thù, khi diễn ra hành động đó.”
Khi diễn ra hành động đó. Có phải ông đang nghĩ như ý nó muốn nói không?
“Con vẫn còn sợ à? ông hỏi. “Vâng.”
“Con sợ chúng sẽ quay trở lại?”
“Vâng.”
“Có phải con nghĩ chỉ cần không làm chứng chống lại chúng với cảnh sát, chúng sẽ không quay lại nữa không? Có phải con tự nhủ bản thân mình như thế không?”
“Không.”
“Thế thì là gì?” Cô im lặng. “Lucy, có thể rất đơn giản thôi. Đóng hết các chuồng chó lại. Làm ngay đi. Khóa trái ngôi nhà lại, trả tiền thuê Petrus trông chừng nó. Đi nghỉ đâu đó khoảng chừng sáu tháng hay một năm, cho đến khi mọi thứ được cải thiện ở đất nước này. Đi ra nước ngoài. Đi sang Hà Lan đi. Bố sẽ thanh toán hết. Khi quay về, con có thể mua cổ phiếu, có một khởi đầu mới.”
“David, nếu con mà đi bây giờ, con sẽ không quay về đâu. Cảm ơn bố vì lời đề nghị, nhưng sẽ không hiệu quả đâu. Chẳng có gợi ý nào của bố mà chính con không tự nghĩ đến cả trăm lần rồi.”
“Vậy thì con thử đề xuất xem nên làm gì đi?”
“Con không biết. Nhưng dù có quyết định ra sao, con cũng muốn tự đưa ra quyết định, mà không bị thúc ép. Có những chuyện chỉ là bố không hiểu.”
“Bố không hiểu chuyện gì cơ?”
“Bắt đầu là bố không hiểu chuyện gì đã xảy ra với con ngày hôm đó. Bố lo lắng vì con, là điều con rất cảm động, con nghĩ rằng bố hiểu nhưng cuối cùng bố không hiểu. Vì bố không thể.”
Ông giảm tốc độ xuống, ngoặt khỏi con đường. “Đừng,” Lucy nói. “Không phải ở đây. Đây là đoạn đường xấu, nếu đỗ lại thì quá nguy hiểm.”
Ông tăng tốc. “Ngược lại, bố hiểu rõ mọi chuyện,” ông nói. “Bố sẽ nói thật to cái từ mà chúng ta đã lảng tránh suốt từ đó đến giờ. Con đã bị ba tên đó hãm hiếp. Rất nhiều lần.”
“Và?”
“Con đã trải qua những giây phút khiếp sợ trong cuộc đời mình. Con e sợ rằng sau khi đã bị lạm dụng mình sẽ bị giết. Bị thủ tiêu. Bởi vì con chẳng là gì đối với chúng.”
“Và?” Giọng cô giờ như một lời thì thầm.
“Và bố chẳng làm được gì cả. Bố đã không cứu con.” Đây là lời thú nhận của riêng ông.
Cô phác một cử chỉ búng ngón tay sốt ruột. “Đừng tự trách mình nữa, David. Con không thể mong đợi bố cứu được con. Nếu chúng đến sớm hơn một tuần, hẳn là sẽ chỉ có mình con ở nhà. Nhưng bố nói đúng, con chẳng là cái gì đối với chúng hết, chẳng là gì cả. Con có thể cảm nhận được điều đó.”
Có một khoảng lặng. “Con nghĩ trước kia chúng đã từng làm thế,” cô nói tiếp, lúc này giọng cô điềm tĩnh hơn. “Ít nhất thì hai tên lớn hơn kia. Con nghĩ trên hết, bọn chúng là những kẻ chuyên đi cưỡng hiếp. Ăn cắp mọi thứ chỉ là tình cờ thôi. Tiện thì làm. Con nghĩ chủ ý của chúng là hãm hiếp.”
“Con nghĩ chúng sẽ quay lại à?”
“Con nghĩ mình đang ở trong lãnh thổ của chúng. Chúng đã đánh dấu con. Chúng sẽ quay lại để tìm con.”
“Vậy thì con càng không thể ở lại.”
“Tại sao không?”
“Bởi vì thế chẳng khác gì mời chúng quay lại.”
Cô trầm ngâm một lúc lâu trước khi trả lời. “Chẳng nhẽ không còn cách nào để nhìn nhận chuyện này sao David? Thế nếu... thế nếu đó là cái giá ta phải trả để được ở lại? Có lẽ đó là cách chúng nhìn nhận nó, có lẽ đó cũng nên là cách con nhìn nhận chuyện này. Chúng xem như con đang nợ chúng thứ gì đó. Chúng tự xem bản thân mình như những kẻ thu nợ, những kẻ thu thuế. Tại sao con được phép sống ở đây mà không chịu nôn tiền ra? Có lẽ bọn chúng cũng tự nhủ với mình như thế.”
“Bố chắc chắn chúng tự nhủ với mình rất nhiều thứ. Chúng chỉ quan tâm đến việc bịa ra những câu chuyện để biện minh cho bản thân. Nhưng hãy tin vào những cảm xúc của con. Con từng nói mình chỉ cảm thấy ở chúng sự căm thù.”
“Căm thù... David, đã liên quan đến đàn ông và tình dục, thì chẳng điều gì còn khiến con ngạc nhiên được nữa. Với đàn ông, chuyện tình dục trở nên hấp dẫn hơn khi họ căm ghét phụ nữ. Bố là đàn ông thì bố phải biết. Khi bố quan hệ tình dục với một người lạ - khi bố giăng bẫy được cô ta, ghì chặt cô ta xuống, nằm lên trên người cô ta, đè cả trọng lượng cơ thể mình xuống người cô ta - nó có khác mấy so với giết người không? Thọc con dao vào; sau đó rút ra, bỏ lại sau lưng cái xác chết đẫm máu - cảm xúc có giống với án mạng không, có giống thoát khỏi tội giết người không?”
Bố là đàn ông thì bố phải biết: có ai ăn nói với bố mình như thế không? Con bé và ông có cùng một phe không thế?
“Có thể,” ông đáp. “Thỉnh thoảng, với vài đàn ông là thế.” Và rồi không hề suy nghĩ, ông vội vã tiếp luôn. “Cả hai tên ấy cảm giác đều giống như thế sao? Như thể chiến đấu với tử thần ấy?”
“Chúng khuyến khích lẫn nhau. Có lẽ đó là lý do tại sao chúng cùng nhau làm chuyện đó. Như những con chó trong bầy.”
“Còn tên thứ ba thì sao, thằng nhóc ấy?”
“Nó có mặt ở đó để học hỏi.”
Họ đã đi qua tấm biển báo Cycads. Đã gần hết giờ.
“Nếu chúng là người da trắng thì con sẽ không nói về chúng theo kiểu đó,” ông nói. “Nếu chúng là những thằng da trắng đến từ Despatch chẳng hạn.”
“Thế sao?”
“Không, con sẽ không nói thế. Bố không trách con, đó không phải là vấn đề. Nhưng con đang nói đến một điều mới mẻ. Nô lệ. Chúng muốn biến con thành nô lệ của chúng.”
“Không phải nô lệ. Mà là bị chinh phục, bị khuất phục.”
Ông lắc đầu. “Quá sức bố rồi, Lucy ạ. Bán hết tất cả đi. Bán trang trại cho Petrus rồi bỏ đi thôi.”
“Không.”
Đến đây cuộc đối thoại chấm dứt. Nhưng những lời của Lucy vang vọng trong tâm trí ông. Đẫm máu. Con bé muốn nói cái gì nhỉ? Rốt cuộc ông có đúng không khi mơ về cái giường đầy máu, một cuộc tắm máu?
Chủ ý của chúng là hãm hiếp. Ông nghĩ đến ba vị khách lái chiếc Toyota không cũ lắm, ghế sau chất đầy đồ gia dụng, những chiếc dương vật của chúng, vũ khí của chúng, nằm giữa hai chân chúng ấm áp và thỏa mãn - grừ, grừ là từ ngữ chợt nảy đến với ông. Chắc chúng phải có mọi lý do để hài lòng với công việc buổi chiều của mình, chắc chúng phải thấy hạnh phúc với kỳ nghỉ của mình.
Ông nhớ lại, hồi còn bé ông từng miệt mài tra cứu từ hãm hiếp trong các bài viết trên báo, cố gắng nghĩ xem từ này chính xác có nghĩa là gì, tự hỏi cái chữ p 1, thông thường là một âm rất nhẹ nhàng, đang làm gì giữa một từ ngữ gây ra nỗi khiếp sợ đến nỗi không ai dám nói to nó lên. Trong một cuốn sách nghệ thuật trong thư viện có một bức họa mang tên Vụ hãm hiếp những phụ nữ Sabine; những người đàn ông trên lưng ngựa trong bộ giáp La Mã thiếu vải, những người phụ nữ đeo khăn voan mỏng vung hai tay lên không trung và rên rỉ. Tất cả những điệu bộ này thì có liên quan gì đến cái mà ông nghi ngờ là hãm hiếp: người đàn ông nằm đè trên người đàn bà và đút cái của hắn vào trong cô ta?
Ông nghĩ đến Byron. Trong số vô vàn những nữ hầu tước và cô hầu gái mà Byron đã thọc cái của nợ của ông ta vào, không nghi ngờ gì nữa, có người đã gọi đấy là hãm hiếp. Nhưng chắc chắn không ai có lý do phải e sợ vì chuyện này mà họ sẽ bị cứa cổ. Theo quan điểm của ông, theo quan điểm của Lucy, thực sự Byron trông rất lạc hậu.
Lucy đã khiếp sợ, sợ gần chết. Giọng nói của con bé bị tắc nghẹn, con bé không thể thở nổi, tứ chi con bé tê liệt. Chuyện này không xảy ra, con bé tự nhắc mình khi lũ đàn ông ghì chặt con bé xuống; chỉ là mơ thôi, chỉ là ác mộng thôi. Trong khi đó, về phần mình, bọn chúng uống cạn nỗi sợ hãi của con bé, thưởng thức nó, làm tất cả những gì chúng có thể để gây tổn thương cho con bé, để đe dọa con bé, tăng thêm nỗi kinh hoàng của con bé. Gọi lũ chó của cưng đi! chúng nói với con bé. Tiếp đi, gọi lũ chó của cưng đi! Không có chó à? Vậy để bọn này cho cưng xem lũ chó nhé!
1 Tiếng Anh: Rape, âm /p/ là âm đuôi của từ này
Ông không hiểu, ông đã không ở đó, Bev Shaw đã nói thế. Bà ta đã nhầm. Rốt cuộc trực giác của Lucy đã đúng: ông hiểu cả; nếu tập trung, nếu ông đánh mất mình, ông có thể có mặt ở đó, trở thành những kẻ đó, nhập hồn vào chúng, chiếm hữu chúng bằng hồn ma của chính ông. Câu hỏi là, liệu ông có thể biến mình thành phụ nữ được không?
Từ nỗi cô độc trong căn phòng của mình, ông viết cho con gái một bức thư:
“Lucy yêu dấu nhất, Bằng tất cả tình yêu trên thế gian này, bố phải nói những điều sau đây. Con đang trên bờ vực của tội lỗi nguy hiểm nhất. Con mong muốn tự biến mình thành kẻ khiêm nhường trước lịch sử. Nhưng con đường con đang đi là sai lầm. Con đường ấy sẽ lột sạch mọi danh dự của con; con sẽ không thể sống với chính bản thân mình được nữa. Bố van xin con, hãy lắng nghe bố. Bố của con.”
Nửa tiếng sau, một phong bì được đẩy vào dưới cửa phòng ông.
“David yêu dấu, Bố đang không lắng nghe con. Con không phải là người mà bố biết. Con là một người đã chết và con còn chẳng biết điều gì sẽ đưa con về từ cõi chết. Tất cả những gì con biết, đó là con không thể bỏ đi.
Bố không nhìn ra được điều này, và con không biết mình có thể làm gì nữa để cho bố thấy. Cứ như thể bố đã cố tình chọn ngồi trong một xó tối mà những tia nắng mặt trời không thể nào rọi tới. Con nghĩ về bố như một trong số ba con tinh tinh, là con có những móng vuốt mọc trên đôi mắt nó.
Vâng, con đường con đang đi có thể sai lầm. Nhưng nếu con rời bỏ trang trại vào lúc này, nghĩa là con sẽ bỏ đi như một kẻ thất bại, và sẽ nếm trải cảm giác thất bại ấy suốt cả cuộc đời con.
Con không thể nào cứ trẻ con mãi được. Bố không thể làm một người cha mãi mãi được. Con biết bố có ý tốt, nhưng bố không phải là sự dẫn dắt mà con cần, lúc này thì không.
Con của bố, Lucy.”
Đó là sự trao đổi giữa hai cha con; đó là những lời nói cuối cùng của Lucy.
Việc giết chó trong ngày đã kết thúc, những cái túi đen chất đống ngoài cửa ra vào, mỗi túi đựng bên trong một xác chết và một linh hồn. Ông cùng Bev Shaw nằm trong vòng tay nhau trên sàn phòng mổ. Trong nửa tiếng nữa, Bev sẽ quay về với Bill của bà ta, còn ông sẽ bắt đầu chất các túi lên xe.
“Ông chưa bao giờ kể em nghe về người vợ đầu của mình,” Bev Shaw nói. “Lucy cũng chẳng kể gì về bà ấy.”
“Mẹ Lucy là người Hà Lan. Con bé chắc phải nói với em rồi chứ. Evelina. Evie. Sau khi ly, dị bà ấy quay về Hà Lan rồi. Sau đó bà ấy tái hôn. Lucy không hòa hợp được với cha dượng, nên con bé đề nghị được quay về Nam Phi.”
“Vậy là con bé đã chọn ông.”
“Theo nghĩa nào đó thì là vậy. Con bé cũng chọn luôn cả nơi sinh sống nhất định, một chân trời nhất định. Giờ tôi đang cố gắng khuyên con bé một lần nữa bỏ đi, dẫu chỉ là đi nghỉ mát. Con bé có gia đình tại Hà Lan, cả bạn bè nữa. Hà Lan có thể không phải là một trong những nơi hấp dẫn nhất để sống, nhưng ít nhất nơi ấy không sản sinh ra những cơn ác mộng.”
“Và?”
Ông nhún vai. “Lucy hiện đang không đón nhận bất kỳ lời khuyên nào của tôi. Nó bảo tôi không phải là kẻ dẫn dắt tốt.”
“Nhưng ông từng là giáo viên cơ mà.”
“Theo nghĩa tương đồng nhất. Giảng dạy với tôi chưa bao giờ là nghề nghiệp. Chắc chắn tôi không bao giờ ôm tham vọng dạy cho người ta nên sống thế nào. Tôi đã từng được gọi là một học giả. Tôi viết các cuốn sách về những người đã chết. Đó là nơi tôi đặt cả trái tim mình vào đó. Tôi giảng dạy chỉ để kiểm sống thôi.”
Bà đợi chờ ông nói thêm, nhưng ông không còn tâm trạng để nói tiếp.
Mặt trời đang lặn xuống, trời lạnh dần. Họ không làm tình; thực ra họ đã không còn muốn giả vờ rằng cả hai cùng nhau làm chuyện đó.
Trong đầu ông, Byron đứng một mình trên sân khấu, hít một hơi dài để cất tiếng hát. Anh ta đang sắp lên đường tới Hy Lạp. Ở tuổi ba mươi lăm, anh ta đã bắt đầu hiểu rằng cuộc sống là quý giá.
Chính nơi đây, những kẻ bất hạnh sẽ tìm thấy những đôi mắt nhỏ lệ khóc mình 1: đó là những lời của Byron, ông chắc chắn như thế. Còn về âm nhạc, nó vừa vơ vẩn đâu đó trên đường chân trời, vừa chưa tìm đến với ông.
“Ông không được lo lắng đâu đấy,” Bev Shaw nói. Mái đầu bà ngả xuống ngực ông: có lẽ bà có thể nghe thấy nhịp tim ông, với nhịp đập như một câu thơ sáu âm tiết. “Bill và em sẽ chăm sóc con bé. Bọn em sẽ thường xuyên đến trang trại. Và còn Petrus nữa. Petrus sẽ để mắt trông chừng bên ngoài.”
“Petrus nhân từ.”
“Vâng.”
1 Nguyên văn: Sunt Iacrimae rerum, et mentem mortalia tangunt.
“Lucy bảo rằng tôi không thể cứ làm cha mãi được. Tôi không thể hình dung rằng trong cuộc đời này, mình không còn là cha của Lucy nữa.”
Bà lùa những ngón tay mình qua mái tóc lởm chởm của ông. “Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi,” bà thì thầm. “Rồi ông sẽ thấy.”