Căn nhà là một phần của kế hoạch phát triển mà chắc mười lăm hoặc hai mươi năm trước, khi nơi này mới được xây dựng, chắc còn khá hoang vắng, nhưng kể từ khi được cải thiện với những vỉa hè trồng cỏ, nhiều cây cối và các cây leo đã tràn lên cả những bức tường bê tông đúc sẵn. Số 8 phố Rustholme Crescent có cảnh cổng vườn được sơn và một máy tự động trả lời điện thoại.
Ông nhấn nút. Một giọng nói trẻ trung cất lên: “A lô ạ?”
“Tôi muốn gặp ngài Isaacs. Tên tôi là Lurie.”
“Ông ấy chưa về đâu ạ.”
“Bao giờ thì ông ấy về?”
“Ngay bây giờ.” Một tiếng ầm ì, tiếng mở khóa cửa lanh canh; ông đẩy cửa vào.
Lối đi dẫn tới cánh cửa trước, nơi một cô bé mảnh mai đang đứng nhìn ông. Cô ta ăn mặc đồng phục học sinh: váy màu xanh nước biển, tất chân dài màu trắng, áo sơ mi hở cổ. Cô bé có đôi mắt của Melanie, cặp xương gò má rộng của Melanie, mái tóc đen của Melanie; mà thậm chí còn xinh đẹp hơn nữa. Người em gái mà Melanie đã từng nói tới, có cái tên mà vào nhất thời ông nhớ không nổi.
“Xin chào. Bao giờ thì cha cháu về?”
“Trường tan vào lúc ba giờ, nhưng ông ấy thường về muộn. Không sao đâu ạ, bác vào nhà đi.”
Cô bé giữ cửa mở cho ông, hãnh diện đứng thẳng người khi ông bước qua. Cô bé đang ăn một lát bánh, kẹp giữa hai ngón tay một cách duyên dáng. Mấy mẩu vụn bánh còn vương trên bờ môi trên. Đúng vào lúc ông cảm thấy cơn thúc giục những muốn vươn tay ra, gạt hết chúng đi thì hồi ức về người chị gái tràn khắp người ông thành làn sóng nóng bỏng. Chúa cứu con, ông nghĩ - mình đang làm cái gì ở đây thế nhỉ? “Bác cứ ngồi nếu muốn ạ.”
Ông ngồi xuống. Đồ nội thất lóng lánh, căn phòng ngăn nắp đến ngột ngạt.
“Tên cháu là gì?” ông hỏi.
“Desiree ạ.”
Desiree: giờ thì ông nhớ rồi. Melanie là đứa sinh trước, da ngăm đen, tiếp theo là Desiree, đứa trẻ đáng khao khát hơn. Chắc chắn họ đã quyến rũ những vị thần để ban tặng cho cô bé cái tên như thế!
“Tên bác là David Lurie.” Ông ngắm nhìn cô bé chăm chú, nhưng cô bé không hề cho thấy mình nhận ra ông. “Bác đến từ Cape Town.”
“Chị gái cháu đang ở Cape Town. Chị ấy là sinh viên.”
Ông gật đầu. Ông không nói: bác biết chị gái cháu, biết rất rõ. Nhưng ông nghĩ: trái cây của cùng một cái cây, có khả năng giống nhau đến từng chi tiết nhỏ nhất. Nhưng vẫn có những khác biệt: nhịp đập khác nhau trong mạch máu, những thôi thúc tình cảm khác nhau. Hai người họ ngủ cùng một giường: một trải nghiệm thích hợp với một vị vua.
Ông khẽ run rẩy, nhìn đồng hồ đeo tay: “Cháu biết gì không, Desiree? Bác nghĩ mình sẽ cố gắng gặp được cha cháu tại trường, nếu cháu chỉ cho bác đường tới đó.”
Ngôi trường cùng loại với bất động sản nhà ở: một tòa nhà thấp xây bằng gạch ốp với các cửa sổ bằng thép và mái a-mi-ăng, bao xung quanh là một hàng rào hình tứ giác đầy bụi có dây thép gai. Trên một cột đá ở lối vào đề dòng chữ F.S.MARAIS, còn cột kia đề dòng chữ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ.
Sân trường vắng hoe. Ông thả bước lang thang đến khi tới gần một tấm biển đề chữ VĂN PHÒNG. Bên trong, một bà thư ký tuổi trung niên phốp pháp đang giũa móng tay. “Tôi muốn tìm ông Isaacs,” ông nói.
“Ngài Isaacs!” bà ta gọi. “Ngài có khách này!” Bà ta quay sang ông. “Mời vào trong.”
Đang ngồi sau bàn, Isaacs nửa muốn đứng dậy, rồi ngừng lại, nhìn ông đầy bối rối.
“Ông còn nhớ tôi không? David Lurie đây, từ Cape Town.”
“Ồ,” Isaacs nói, rồi lại ngồi xuống. Ông ta vẫn đang mặc bộ complet quá khổ ấy: cái cổ như biến mất trong áo khoác, từ nơi đó, ông ta nhòm ra trông như con chim mỏ nhọn bị nhốt trong bị. Các ô cửa sổ đều đóng kín, có mùi khói thuốc lưu cữu.
“Nếu ông không muốn gặp, tôi sẽ quay về ngay,” ông nói.
“Không,” Isaacs nói. “Ngồi đi. Tôi chỉ đang kiểm tra sĩ số lớp. Nếu ông không phiền thì chờ tôi làm xong được không?”
“Cứ tự nhiên.”
Có một bức ảnh viền khung đặt trên bàn. Không thể nhìn thấy nó từ nơi mình ngồi, nhưng ông biết bức ảnh ấy chụp ai: Melanie và Desiree, những con người trong mắt của cha họ, với người mẹ đã mang nặng đẻ đau hai cô bé.
“Vậy là,” Isaacs nói, đóng cuốn sổ ghi chép cuối cùng lại. “Cơn gió nào đưa ông tới đây vậy?”
Nhẽ ra ông phải căng thẳng, nhưng ông lại thấy mình hoàn toàn bình tĩnh.
“Sau khi Melanie nộp đơn kiện,” ông nói, “trường đại học có tổ chức một cuộc thẩm vấn chính thức. Hậu quả là tôi đã xin từ chức. Đó là chuyện dĩ vãng rồi, chắc ông phải nhận thức được.”
Isaacs nhìn ông trừng trừng khó hiểu, chẳng để lộ điều gì.
“Kể từ đó, tôi thành kẻ ăn không ngồi rồi. Hôm nay, tôi có đi qua George và nghĩ rằng mình có thể ghé qua và nói chuyện với ông. Tôi còn nhớ cuộc gặp gỡ cuối cùng của chúng ta thật... nóng nảy. Nhưng tôi nghĩ dù sao mình vẫn nên đến và nói những lời ấp ủ trong lòng mình.”
Câu này phần nhiều là sự thật. Ông thực sự muốn bộc bạch nỗi lòng. Câu hỏi là, trong lòng ông có cái gì?
Trên tay Isaacs đang cầm cây bút Bic rẻ tiền. Ông ta rà các ngón tay khắp thân bút, xoay bút lại, rồi lại rà ngón tay xuống thân bút, rồi lại xoay cứ thế, trong một cử động máy móc hơn là một biểu hiện của sự sốt ruột.
Ông nói tiếp. “Ông đã nghe một phía câu chuyện từ Melanie. Tôi muốn kể ông nghe câu chuyện từ phía tôi, nếu ông sẵn sàng muốn nghe.”
“Về phần tôi, nó đã bắt đầu mà không hề có dự tính trước. Nó bắt đầu như một cuộc phiêu lưu, một trong những cuộc phiêu lưu nhỏ bé bất ngờ mà những người đàn ông nhất định sẽ có, mà tôi có, khiến tôi cứ thế bước tiếp. Xin thứ lỗi cho tôi vì nói chuyện đó theo cách này. Tôi đang cố gắng thẳng thắn.
“Tuy nhiên, trong trường hợp của Melanie đã xảy ra một chuyện bất ngờ. Tôi nghĩ nó như một ngọn lửa. Cô bé đã thổi bùng một ngọn lửa trong tôi.”
Ông ngừng lại. Cây bút vẫn tiếp tục vũ điệu của nó. Một cuộc phiêu lưu nhỏ bất ngờ. Những người đàn ông nhất định sẽ có. Người đàn ông ngồi sau bàn kia có cuộc phiêu lưu nào không? Càng nhìn ông ta nhiều bao nhiêu, ông càng nghi ngờ điều đó bấy nhiêu. Ông sẽ không ngạc nhiên nếu Isaacs là ai đó trong nhà thờ, một thầy tế hay một người phụ lễ, bất kể người phụ lễ là cái gì.
“Một ngọn lửa: Thế thì có gì đáng kể đâu? Nếu ngọn lửa ấy vụt tắt, ông quẹt một que diêm rồi khơi lên một ngọn lửa khác. Đó là cách tôi từng nghĩ. Thế nhưng ngày xưa con người đã thờ phụng lửa. Họ suy nghĩ hai lần trước khi dập tắt một ngọn lửa, một vị thần lửa. Đó là kiểu ngọn lửa mà con gái ông đã thổi bùng lên trong tôi. Không đủ nóng để thiêu cháy tôi, nhưng nó hiệu hữu: một ngọn lửa thực sự.”
Thiêu cháy - đã thiêu cháy - cháy rụi 1.
Cái bút ngừng chuyển động. “Ông Lurie,” cha nàng nói, và trên gương mặt ông ta xuất hiện một nụ cười méo mó và đau đớn. “Tôi tự hỏi mình liệu ông đang có âm mưu quái gì đây, khi ông đến trường của tôi và kể tôi nghe những chuyện...”
“Tôi xin lỗi, đúng là sỉ nhục, tôi biết. Hết rồi. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói, để tự bảo vệ mình. Melanie thế nào rồi?”
“Melanie khỏe, vì ông đã hỏi. Tuần nào con bé cũng gọi điện. Nó vẫn tiếp tục học tập như bình thường, nhà trường dành cho con bé sự miễn trừ đặc biệt để tiếp tục học, tôi chắc chắn ông hiểu, vì hoàn cảnh mà. Thời gian rảnh, con bé sẽ tham gia diễn kịch và nó đang làm rất tốt. Thế nên Melanie ổn cả. Thế còn ông? Những kế hoạch của ông là gì từ sau khi bỏ nghề?”
“Tôi cũng có con gái, chắc ông sẽ rất thích thú khi nghe điều đó. Con bé sở hữu một trang trại; tôi muốn dành chút thời gian ở bên cạnh con bé, đỡ đần cho nó. Ngoài ra, tôi còn phải hoàn thành một cuốn sách, gần như là sách. Bằng cách này hay cách khác, tôi luôn khiến mình bận rộn.”
1 Burned- burnt- burnt up.
Ông ngừng lời. Isaacs đang nhìn ông chăm chú, sắc lạnh đến nỗi khiến ông kinh ngạc.
“Như vậy,” Isaacs nhẹ nhàng nói, từ ngữ bật ra khỏi đôi môi ông ta như tiếng thở dài, “đúng là kẻ thất bại vĩ đại làm sao!”
Kẻ thất bại? Vâng, đã từng thất bại, chẳng nghi ngờ gì nữa. Nhưng vĩ đại ư? Từ vĩ đại có miêu tả được ông không? Ông nghĩ về bản thân mình như một kẻ vô danh và ngày càng vô danh hơn. Một nhân vật đứng ngoài rìa lịch sử.
“Có lẽ như thế tốt cho cả hai ta,” ông nói, “nếu vào lúc này hay lúc khác chúng ta thất bại. Miễn đừng có suy sụp là được.”
“Tốt. Tốt. Tốt,” Isaacs nói, vẫn nhìn xoáy vào ông chăm chú. Lần đầu tiên ông phát hiện ra một nét của Melanie trong ông ta: đường nét hấp dẫn của miệng và đôi môi. Trong cơn bốc đồng, ông rướn người qua bàn, cố gắng bắt lấy bàn tay người đàn ông, cuối cùng là vuốt ve mu bàn tay ấy. Làn da mát lạnh, không có lông tay ấy.
“Ông Lurie,” Isaacs nói, “còn chuyện gì nữa ông muốn nói với tôi không, ngoài chuyện của ông với Melanie? Ông đã nói rằng điều gì đó đang đè nặng trái tim mình.”
“Đè nặng trái tim tôi? Không. Không, tôi chỉ ghé qua và tìm hiểu xem Melanie thế nào thôi.” Ông đứng dậy. “Xin cảm ơn đã gặp tôi, xin cảm ơn vì điều đó.” Ông chìa bàn tay ra, lần này thẳng thắn hơn. “Tạm biệt.”
“Tạm biệt.”
Khi ông ra đến cửa - thực ra, khi ông ra đến văn phòng ngoài, mà hiện giờ trống không - thì Isaacs gọi với ra: “Ông Lurie! Đợi một chút!”
Ông quay người lại.
“Ông có kế hoạch gì cho buổi tối chưa?”
“Tối nay ư? Tôi đã đặt phòng khách sạn rồi. Tôi không có kế hoạch gì cả.”
“Hay đến dùng bữa với chúng tôi đi. Cùng ăn tối.”
“Tôi không nghĩ vợ ngài sẽ thích đâu.”
“Có thể thế. Cũng có thể là không. Dù sao cứ đến nhé. Bẻ bánh mỳ cùng chúng tôi. Nhà tôi ăn lúc bảy giờ. Để tôi ghi lại địa chỉ cho ông.”
“Ngài không cần phải làm vậy đâu. Tôi đã tới nhà ngài, gặp con gái ngài rồi. Chính cô bé đã chỉ đường cho tôi tới đây.”
Isaacs không hề ngạc nhiên. “Tốt,” ông ta nói.
Đích thân Isaacs ra mở cửa trước. “Mời vào, mời vào,” ông ta nói, kéo ông vào trong phòng khách. Chẳng thấy bóng bà vợ, cũng chẳng thấy cô con gái thứ hai đâu.
“Tôi có mang quà đến,” ông nói, lấy ra một chai rượu vang.
Isaacs cảm ơn ông nhưng có vẻ không biết nên làm gì với chai rượu. “Ngài đợi tôi một chút được không? Tôi sẽ đi mở nó ra.” Ông ta rời phòng; có tiếng thì thầm trong bếp. Ông ta quay lại. “Có vẻ như chúng tôi làm mất cái mở nút chai rồi. Nhưng Dezzy sẽ đi mượn ở nhà hàng xóm.”
Rõ ràng họ là những kẻ bài rượu. Lẽ ra ông nên nghĩ tới chuyện này. Một gia đình tiểu tư sản nhỏ bé gắn bó, thanh đạm, thận trọng. Xe đã rửa, bãi cỏ đã xén, những khoản tiền tiết kiệm gửi trong ngân hàng. Họ tập trung toàn bộ tài nguyên của mình chuẩn bị tương lai cho hai cô con gái quý giá: Melanie thông minh, với những tham vọng nghệ thuật của nàng; Desiree, người đẹp.
Ông nhớ Melanie, vào buổi tối đầu tiên khi họ đã thân thiết hơn, nàng ngồi cạnh ông trên xô-pha uống cà phê trong cái ly thủy tinh pha chút rượu whisky với mục đích - cái từ này miễn cưỡng bật ra - chuốc say nàng. Cơ thể bé bỏng gọn gàng của nàng, bộ quần áo gợi tình của nàng; đôi mắt nàng lấp lánh vì phấn khích. Liều lĩnh bước ra khỏi rừng nơi bầy sói hoang đang rình mò.
Desiree xinh đẹp bước vào cùng cái chai và cái mở nút chai. Khi băng ngang phòng về phía họ, cô bé ngập ngừng một chút, nhận ra quên chưa nói lời chào. “Bố?” cô bé lầm bầm tỏ ý bối rối, giơ cái chai ra.
Ra vậy: cô bé đã phát hiện ra ông là ai. Họ đã thảo luận về ông, có lẽ đã tranh luận về ông: vị khách không mời, người đàn ông có cái tên là bóng tối.
Ông bố nắm chặt tay cô bé trong tay mình. “Desiree,” ông ta nói, “đây là ngài Lurie.”
“Xin chào Desiree.”
Mái tóc rủ xuống trước mặt được cô bé túm gọn ra sau đầu. Đáp lại cái nhìn chăm chú của ông, vẫn ngượng ngùng, nhưng giờ cô bé đã bạo dạn hơn vì có bố che chở. “Xin chào,” cô bé lẩm bẩm, và ông nghĩ, lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi!
Về phần mình, cô bé không thể giấu được ông ý nghĩ đang thoáng qua trong óc: Vậy ra đây là người đàn ông từng ăn nằm với chị mình! Vậy ra đây là người đàn ông dính dáng đến chị gái mình! Lão già này!
Có một phòng ăn nhỏ tách biệt, ngăn cách với bếp bằng cánh cửa sập. Bốn chỗ ngồi được bày biện với dao nĩa thuộc loại tốt nhất; những ngọn nến đang cháy. “Ngồi đi, ngồi đi!” Isaacs nói. Vẫn không thấy bà vợ đâu. “Xin thứ lỗi một phút.” Isaacs biến mất vào trong bếp, Chỉ còn mình ông với Desiree ngồi bên kia bàn. Cô bé cúi gục đầu xuống, không còn tỏ ra dũng cảm nữa.
Thế rồi họ quay lại, cả ông bố và bà mẹ. Ông đứng dậy. “Ngài chưa gặp vợ tôi nhỉ, Doreen, vị khách của chúng ta đây, ngài Lurie.”
“Tôi rất biết ơn bà vì đã đón tiếp tôi trong căn nhà mình, thưa bà Isaacs.”
Bà Isaacs là một phụ nữ lùn, trông càng mập mạp ở tuổi trung niên, với đôi chân vòng kiềng khiến bà ta bước đi hơi nghiêng ngả. Nhưng ông có thể thấy hai chị em thừa hưởng sắc đẹp như thế từ đâu. Chắc chắn ngày xưa bà ta là người đẹp thực sự.
Những đường nét của bà ta vẫn cứng nhắc, bà ta lảng tránh ánh mắt ông, nhưng dành cho ông cái gật đầu rất nhẹ. Ngoan ngoãn: một bà vợ và người bạn đời tốt. Và hai người sẽ trở thành một thân. Mấy đứa con gái có chăm sóc bà ta không?
“Desiree,” bà ta ra lệnh, “giúp mẹ mang đồ ra.” Đứa trẻ ngoan ngoãn đứng dậy khỏi ghế.
“Ngài Isaacs, tôi chỉ tổ gây phiền nhiễu đến cho gia đình ngài,” ông nói. “Ngài thật tử tế khi mời tôi, tôi rất cảm ơn, nhưng tốt hơn tôi nên về thôi.”
Isaacs nở một nụ cười, mà trước sự ngạc nhiên của ông, lại có vẻ hoan hỉ. “Ngồi đi, ngồi đi! Chúng tôi sẽ ổn cả thôi! Chúng ta sẽ làm việc này!” Ông ta rướn người sang gần hơn. “Ngài phải mạnh mẽ lên đấy!”
Sau đó Desiree cùng bà mẹ quay lại mang theo bát đĩa: gà nấu chua ngọt trong bát sôi sùng sục tỏa ra ngào ngạt các mùi thương của gừng và thìa là Ai Cập, cơm, salad và rau cải dầm sắp xếp tinh tế. Đúng những món ăn ông nhớ nhất, khi sống cùng Lucy.
Chai rượu được đặt trước mặt ông, cùng một ly rượu lẻ loi.
“Tôi là người duy nhất uống rượu sao?” ông hỏi. “Xin mời,” Isaacs đáp. “Ông cứ tự nhiên.”
Ông rót rượu ra cốc. Ông không thích uống vang ngọt, ông đã mua chai Late Harvest vì nghĩ rằng vị của nó sẽ hợp với mình. Quá tệ với ông rồi.
Vẫn còn lời cầu nguyện nữa phải thực hiện. Nhà Isaacs nắm tay nhau; ông chẳng còn biết làm gì hơn ngoài việc cũng giơ hai tay ra, tay trái nắm lấy bàn tay cha cô bé, tay phải nắm tay mẹ cô bé. “Xin Chúa ban phúc lành cho chúng con và của ăn chúng con sắp dùng, nhờ Đức Kitô, Chúa Chúng con,” Isaacs nói. “Amen,” vợ và con gái ông ta nói; còn ông, David Lurie, cũng lẩm bẩm “Amen” rồi buông hai bàn tay kia ra, bàn tay của người cha mềm như lụa, bàn tay của người mẹ thì nhỏ, mập mạp, ấm hơi lửa bếp.
Bà Isaacs cầm đĩa đồ ăn lên. “Cẩn thận, nóng đấy,” bà ta nói khi chuyển đĩa đồ ăn cho ông. Đó là những lời duy nhất bà ta nói với ông.
Trong suốt bữa ăn, ông cố tỏ ra mình là vị khách lịch sự, ăn nói vui vẻ, phá tan những sự im lặng. Ông nói về Lucy, về những cái chuồng nhận trông chó, việc nuôi ong và những dự án làm vườn của cô, về những gì cô hay làm vào buổi sáng thứ Bảy tại phiên chợ. Ông bỏ qua phần cuộc tấn công, chỉ nói rằng xe mình bị ăn cắp. Ông nói chuyện về Quỹ Phúc lợi Động vật, nhưng không nói đến cái lò thiêu trong sân sau bệnh viện hay những buổi chiều lén lút với Bev Shaw.
Xâu chuỗi với nhau theo cách này, câu chuyện cứ thế tuôn trào không có những khoảng tối. Cuộc sống nông thôn với tất cả tính đơn giản dại khờ của nó. Ôi, ông ước mong nó có thể trở thành sự thật xiết bao! Ông đã mệt mỏi với những bóng tối, với những sự phức tạp, với những con người phức tạp. Ông yêu thương con gái mình, nhưng có những khi ông muốn cô hãy làm một người đơn giản hơn: mộc mạc hơn, ngăn nắp hơn. Kẻ đã hãm hiếp cô, tên đứng đầu băng nhóm là một người như thế. Giống như dao chém gió.
Ông chợt thấy hình ảnh chính mình đang nằm duỗi dài ra trên bàn mổ. Một con dao mổ sáng lóe lên; ông bị rạch phanh ra từ cổ họng đến tận háng: ông nhìn thấy tất cả nhưng không cảm thấy đau đớn. Một bác sĩ phẫu thuật, rậm râu, cúi xuống người ông, nhíu mày. Tất cả những thứ này là gì? bác sĩ phẫu thuật càu nhàu. Ông ta gảy gảy vào túi mật. Cái gì đây? Ông cắt nó ra, tung nó sang bên. Ông ta gảy gảy vào trái tim. Cái gì đây?
“Con gái ngài điều hành cả trang trại một mình ư?” Isaacs hỏi.
“Thi thoảng có một người giúp đỡ con bé. Petrus. Một người Nam Phi.” Rồi ông kể về Petrus, Petrus vững chãi, Petrus phụ thuộc, có hai bà vợ và những tham vọng khiêm tốn.
Ông không đói ngấu như ông tưởng tượng. Cuộc đối thoại trở nên nhạt nhẽo, nhưng làm sao đó họ vẫn kết thúc được bữa ăn. Desiree lên tiếng cáo lỗi lui vào làm bài tập. Bà Isaacs dọn bàn.
“Tôi phải về rồi,” ông nói. “Tôi còn phải bắt chuyến tàu sớm ngày mai.”
“Đợi, đợi chút đã,” Isaacs nói.
Chỉ còn lại hai người. Ông không thể tiếp tục quanh co nữa.
“Về Melanie,” ông nói. “Vâng?”
“Một lời nữa thôi, rồi tôi sẽ không nói nữa. Tôi tin rằng mọi chuyện có thể diễn ra rất khác, giữa hai chúng ta, bất chấp tuổi tác của cả hai. Nhưng có một thứ tôi không thể mang lại được, cái gì đó” - ông tìm từ - “trữ tình. Tôi thiếu chất trữ tình. Tôi kiểm soát tình yêu rất tốt. Thậm chí khi bị thiêu cháy, tôi còn không hát, nếu ngài hiểu ý tôi. Về chuyện đó, cho tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi vì những gì con gái ngài đã trải qua. Ngài có một gia đình tuyệt vời. Tôi xin lỗi vì nỗi đau khổ tôi đã gây ra cho ngài và bà Isaacs. Tôi xin ngài tha thứ.”
Tuyệt vời là không chính xác. Từ chuẩn hơn là mẫu mực.
“Vậy,” Isaacs nói, “cuối cùng ngài đã xin lỗi. Tôi tự hỏi bao giờ thì nó tới.” Ông ta suy nghĩ. Ông ta không ngồi xuống ghế; giờ ông ta bắt đầu đi tới đi lui. “Ngài đã hối tiếc. Ngài đã nói là mình thiếu chất trữ tình. Nếu ngài có chất trữ tình, chúng ta hẳn sẽ không phải đối mặt nhau như thế này. Nhưng tôi tự nhủ với mình, tất cả chúng ta đều hối tiếc khi chúng ta phát hiện ra. Vậy nên chúng ta rất hối tiếc. Câu hỏi không phải là chúng ta có hối tiếc không? Mà là chúng ta đã rút ra được bài học gì? Câu hỏi là, giờ chúng ta sẽ làm gì khi thấy hối tiếc?”
Ông vừa định trả lời thì Isaacs giơ tay lên. “Tôi có thể thốt ra cái từ Chúa với ngài được chứ? Ngài không nằm trong số những người thấy bực mình khi nghe thấy tên của Chúa, đúng chứ? Câu hỏi là, Chúa muốn gì ở ngài, ngoài việc cảm thấy hối tiếc? Ngài có ý kiến gì không, ngài Lurie?”
Cho dù bị phân tâm trước hình ảnh Isaacs đi đi lại lại, ông vẫn cố gắng lựa chọn từ ngữ cho cẩn thận. “Thông thường, tôi sẽ nói thế này,” ông đáp, “rằng sau một lứa tuổi nhất định, người ta đã quá già không học nổi một bài học nào nữa. Mà chỉ có thể bị trừng phạt và trừng phạt liên tục. Nhưng có lẽ điều đó không đúng, không phải lúc nào cũng đúng. Tôi sẽ đợi để thấy. Còn về Chúa, tôi không phải là một tín đồ, thế nên tôi sẽ phải giải thích thứ ngài gọi là Chúa và những nguyện ước của Chúa theo ngôn ngữ của riêng tôi. Theo ngôn ngữ ấy, tôi đang bị trừng phạt vì những gì đã xảy ra giữa tôi với con gái ngài. Tôi đắm chìm vào trạng thái ô nhục đến nỗi không thể nhấc đầu lên nổi. Đó không phải là kiểu hình phạt tôi từ chối. Tôi không thì thầm phản đối nó. Mà ngược lại, tôi đang sống cùng nó ngày qua ngày, cố gắng chấp nhận sự ô nhục như trạng thái hiện giờ của mình. Theo ngài, phải sống trong sự ô nhục không có thời hạn, như tôi đây, liệu đã đủ với Chúa chưa?”
“Tôi không biết, ngài Lurie. Thông thường tôi sẽ nói, đừng hỏi tôi mà hãy hỏi Chúa. Nhưng vì ngài không cầu nguyện, nên ngài không có cách nào để hỏi Chúa. Thế nên Chúa phải tự tìm ra cách nói cho ngài biết. Tại sao ngài nghĩ mình lại đến đây, ngài Lurie?”
Ông im lặng.
“Tôi sẽ nói cho ngài biết. Ngài đang đi qua George, và hóa ra gia đình sinh viên của ngài lại đến từ George, và rồi ngài tự nhủ với mình, Tại sao lại không ghé vào thăm?
Ngài không hề lên kế hoạch cho nó, nhưng giờ ngài thấy mình đang ở trong nhà chúng tôi. Chắc khi chuyện này xảy ra, ngài kinh ngạc lắm. Tôi nói đúng không?”
“Không hoàn toàn. Tôi đã không nói thật. Không phải là tôi đi qua đâu. Tôi đã đến George chỉ vì một lý do thôi: được nói chuyện với ngài. Tôi đã nghĩ đến chuyện này một thời gian rồi.”
“Vâng, ngài nói mình đến nói chuyện với tôi, nhưng sao lại là tôi? Nói chuyện với tôi thì dễ lắm, quá dễ ấy. Tất cả bọn trẻ con ở trường đều biết điều đó. Với thầy Isaacs, mày thoát tội dễ lắm - chúng nói vậy đấy.” Ông ta lại mỉm cười, vẫn nụ cười méo mó như trước đây. “Vậy tại sao ông lại thực sự đến nói chuyện với tôi?”
Giờ thì ông chắc chắn về một chuyện: Ông không thích người đàn ông này, không thích những mánh khóe của ông ta.
Ông đứng dậy, mò mẫm đi qua phòng ăn trống trải, bước xuống lối đi. Từ phía sau cánh cửa khép hờ, ông nghe thấy những giọng nói rì rầm. Ông đẩy mạnh cửa mở ra. Đang ngồi trên giường là Desiree và mẹ cô bé, đang làm gì đó với một cuộn len. Kinh ngạc khi nhìn thấy ông, họ bèn im bặt.
Bằng một nghi thức trang nghiêm, ông quỳ mọp xuống, trán ông chạm sàn.
Thế này đủ chưa? ông nghĩ. Đủ chưa? Nếu không, còn phải làm gì nữa?
Ông ngẩng đầu lên. Hai người bọn họ vẫn đang ngồi đó, đông cứng. Ông gặp ánh mắt của bà mẹ, rồi của cô con gái, một lần nữa luồng điện lại biến đổi, dòng điện của khao khát.
Ông đứng dậy, gây ra tiếng kẽo kẹt ầm ĩ hơn hẳn ông mong muốn. “Chúc ngủ ngon,” ông nói. “Cảm ơn vì sự tử tế của hai người. Cảm ơn vì bữa ăn.”
Lúc mười một giờ, có một cuộc gọi dành cho ông trong phòng khách sạn của ông. Đó là Isaacs. “Tôi gọi điện tới để chúc ngài một tương lai vững vàng.” Một khoảng lặng. “Có một câu hỏi mà tôi không bao giờ dám hỏi, ngài Lurie. Chắc ngài không hy vọng chúng tôi sẽ can thiệp với trường đại học thay mặt ngài, đúng không?”
“Can thiệp ư?”
“Vâng. Để phục hồi chức vụ cho ngài chẳng hạn.”
“Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Với trường đại học, tôi đã giải quyết xong rồi.”
“Bởi vì con đường ngài đang đi là con đường Chúa đã ban cho ngài. Chúng tôi không có quyền được can thiệp.”
“Đã hiểu.”