Ông trở về Cape Town trên chuyến tàu N2. Ông mới đi vắng chưa đầy ba tháng, thế nhưng trong quãng thời gian ấy, những khu ổ chuột lụp xụp, tồi tàn đã nằm vắt ngang đường cao tốc và trải dài đến tận phía Đông sân bay. Dòng suối xe cộ phải chạy chậm lại trong khi một đứa trẻ tay cầm gậy dẫn con bò lạc băng ngang đường. Ông nghĩ vùng nông thôn này sắp lên thành phố, sự thật không thể lay chuyển. Rồi sẽ lại có gia súc đi dạo trên đường Rondebosch Common; lịch sử chẳng bao lâu sẽ đi trọn một vòng.
Vậy là ông lại về nhà. Nhưng ông không cảm thấy giống như trở về nhà lắm. Ông không thể tưởng tượng một lần nữa mình lại ở trong ngôi nhà trên phố Torrance, trong cái bóng của trường đại học, lén lút như một tên tội phạm, lẩn tránh tất cả những đồng nghiệp cũ. Ông sẽ phải bán nhà, dọn đến một căn hộ khác giá rẻ hơn ở đâu đó.
Tình hình tài chính của ông đang bất ổn. Kể từ khi bỏ đi, ông không thanh toán cái hóa đơn nào cả. Ông sống nhờ vào khoản tiền gửi ngân hàng; vào bất kỳ lúc nào, khoản tiền ấy cũng có thể cạn kiệt.
Kết cục của chuỗi ngày lang thang. Chuyện gì sẽ đến sau chuỗi ngày lang thang? Ông thấy mình, tóc bạc trắng, lưng còng, lê bước vào cửa hàng ở góc phố mua nửa lít sữa và nửa ổ bánh mỳ; ông thấy mình đang ngồi ngây ra tại bàn làm việc trong một căn phòng chất đầy những giấy tờ vàng vọt, đợi chờ một buổi chiều để ông có thể về nhà nấu bữa tối rồi đi ngủ. Cuộc đời một học giả đã quá già nua, không còn hy vọng, không còn tiền đồ: phải chăng đó là cuộc sống ông sẵn sàng chào đón?
Ông mở cửa trước. Khu vườn giờ đây đã cây cối um tùm, hộp thư chật ních các tờ rơi, những tờ quảng cáo. Cho dù đã được gia cố theo những tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhất, nhưng căn nhà đã mấy tháng trời không có người ở: chẳng còn nhiều hy vọng sẽ có người đến thăm nó. Từ lúc mở cửa trước và ngửi bầu không khí, ông thực sự đã biết có chuyện không ổn. Trái tim ông bắt đầu đập thình thịch với niềm phấn khích bệnh hoạn.
Chẳng có âm thanh nào. Cho dù là ai từng đến đây giờ đã đi rồi. Nhưng làm thế nào họ vào được trong nhà?
Nhón chân đi từ phòng này sang phòng khác, ông đã sớm hiểu ra. Những thanh ngang trên một trong những ô cửa sổ sau nhà đã bị giật ra khỏi bức tường và bị bẻ cong về phía sau; các ô kính cửa sổ bị đập vỡ tan, để lại một lỗ hổng vừa đủ cho một đứa trẻ hay thậm chí là một người lớn có thể hình nhỏ trèo qua. Một thảm lá cây và cát, bị gió thổi phủ đầy trên mặt sàn.
Ông lang thang khắp nhà, thống kê những thiệt hại. Phòng ngủ của ông đã bị lục soát, các tủ quần áo bị lột trần ra hết. Giàn âm thanh của ông cùng các cuốn băng ghi âm, đĩa hát và bộ máy tính đã không cánh mà bay. Trong phòng làm việc, bàn làm việc và tủ hồ sơ của ông đều bị mở toang, giấy tờ vương vãi khắp nơi. Nhà bếp đã bị lột sạch: bộ dao kéo, bộ bát đĩa bằng sành, những đồ dùng nhà bếp cỡ nhỏ. Kho rượu của ông cũng mất. Thậm chí cả chiếc tủ bếp, nơi ông thường bảo quản đồ ăn đóng hộp, cũng biến mất.
Không phải một vụ trộm thông thường. Một nhóm trộm đã lẻn vào đây, dọn sạch bách chỗ này rồi rút lui trên lưng trĩu nặng với bao nhiêu là túi, thùng, va li. Chiến lợi phẩm, những khoản bồi thường chiến phí trong chiến tranh; thêm một biến cố nữa trong chiến dịch tái phân phối quy mô lớn. Lúc này kẻ nào đang lẻn vào cuộc sống của ông? Chẳng nhẽ Beethoven và Janácek tự tìm được nhà cho mình, hay họ bị quẳng vào thùng rác rồi?
Từ phòng tắm tỏa ra thứ mùi hôi thối. Một con bồ câu bị mắc kẹt trong nhà, đã chết rục trong bồn cầu. Ông thận trọng thu dọn đống hỗn độn của xương và lông cho vào một cái túi nhựa rồi đóng chặt lại.
Những ngọn đèn bị cắt dây, đường điện thoại bị ngắt. Trừ phi làm gì đó, bằng không cả đêm nay ông sẽ phải ở trong bóng tối. Nhưng ông quá tuyệt vọng, chẳng muốn làm gì nữa. Kệ xác mọi thứ xuống địa ngục hết đi, ông nghĩ, rồi ngồi thụp xuống ghế nhắm nghiền mắt lại.
Khi hoàng hôn buông xuống, ông kéo mình đứng dậy rời khỏi ngôi nhà. Những ngôi sao đầu tiên đã tắt. Qua những con phố vắng tanh, qua những khu vườn nồng mùi hương cỏ roi ngựa và hoa trường thọ, ông tiến đến khuôn viên trường đại học.
Ông vẫn mang theo chìa khóa vào Tòa nhà Khoa Thông tin Liên lạc. Đúng là giờ vàng để tới đây ám ảnh: các hành lang hoang vắng. Ông đi thang máy lên văn phòng mình trên tầng năm. Bảng tên trên cánh cửa đã bị thay thế. Dòng chữ TIẾN SĨ S. OTTO xuất hiện trên bảng tên mới. Từ phía dưới cánh cửa tỏa ra làn ánh sáng mờ mờ.
Ông gõ cửa. Không có âm thanh nào vọng ra. Ông mở khóa cửa rồi bước vào.
Căn phòng đã có thay đổi. Những cuốn sách và bức tranh của ông đã bị cất đi, bỏ lại những bức tường trống vắng, ngoại trừ bức ảnh to bằng tấm poster cắt từ trong truyện tranh: Siêu nhân đang gục đầu xuống khi bị Lois Lane nhiếc móc.
Phía sau máy tính, trong ánh sáng nhập nhoạng, một thanh niên trẻ ông chưa từng gặp đang ngồi. Chàng thanh niên nhíu mày: “Ông là ai,” anh ta hỏi.
“Tôi là David Lurie.”
“Vâng? Và?”
“Tôi đến để nhận thư từ gửi cho tôi. Nơi đây đã từng là văn phòng của tôi.” Trong quá khứ, suýt nữa ông định nói thêm.
“À đúng rồi, David Lurie. Xin lỗi, tôi không suy nghĩ. Tôi xếp hết tất cả trong một cái thùng, cùng mấy thứ đồ đạc khác của ông mà tôi tìm thấy.” Anh ta khoát tay. “Đằng kia kìa.”
“Còn mấy cuốn sách của tôi?”
“Tất cả ở dưới nhà, bên trong nhà kho.”
Ông nhấc cái thùng lên. “Cảm ơn cậu,” ông nói. “Không có gì,” Tiến sĩ Otto trẻ tuổi nói, “Ông mang nó đi được không?”
Ông mang cái thùng nặng nề đi ngang sang thư viện, với ý muốn lọc qua các bức thư. Nhưng khi ông đến chỗ hàng rào đăng nhập, cái máy không còn chấp nhận thẻ của ông nữa. Ông buộc phải phân loại thư bằng tay trên cái ghế dài ở hành lang.
Ông cứ bồn chồn đến không ngủ nổi. Khi bình minh vừa rạng, ông tiến thẳng lên sườn núi làm một chuyến đi bộ dài. Trời đổ mưa, những dòng suối dâng lên rất nhanh. Ông thở phì phò trong mùi hương thông nồng nồng. Đến ngày hôm nay, ông đã trở thành người tự do, chẳng phải giữ trách nhiệm với bất kỳ ai ngoại trừ chính mình. Thời gian trải dài trước mắt, muốn sử dụng ra sao là tùy ông muốn. Cảm xúc đang hỗn loạn trong lòng, nhưng ông vẫn cho rằng rồi mình sẽ quen với điều đó.
Thời gian ngắn ở cùng Lucy không biến ông thành một người nhà quê. Tuy nhiên, có những thứ làm ông thấy nhớ nhung - gia đình nhà vịt chẳng hạn: Vịt Mẹ bơi lội trên bề mặt con đập, ngực nó ưỡn ra đầy kiêu hãnh, trong khi Eenie, Meenie, Minie và Mo phía sau khỏa nước ì oạp, tự tin rằng chừng nào còn có mẹ, chúng sẽ an toàn không bị làm hại.
Còn về lũ chó, ông không muốn nghĩ về chúng nữa. Từ thứ Hai, lũ chó đã thoát khỏi kiếp sống trong bốn bức tường của phòng mạch sẽ bị quẳng vào ngọn lửa, không ai để ý, không ai thương xót. Vì sự phản bội ấy, liệu ông có được thứ tha?
Ông đến thăm ngân hàng, mang một tải lớn quần áo đi giặt là. Trong cửa hàng bé nhỏ nơi suốt nhiều năm ông đã mua cà phê, người trợ lý giả vờ không nhận ra ông. Người hàng xóm của ông, đang tưới tắm khu vườn của bà ta, cố tình quay lưng lại thật lâu.
Ông nghĩ đến William Wordsworth trong lần đầu tiên ông ta ở lại London, ghé thăm tay diễn viên kịch câm, xem nhân vật Jack Sát Thủ Khổng Lồ đang tự tin sải bước trên sân khấu, mạnh mẽ vung lên lưỡi gươm, được bảo vệ bởi cái từ Vô hình được viết trên ngực mình.
Vào buổi tối, ông gọi cho Lucy từ bốt điện thoại công cộng. “Bố nghĩ mình sẽ gọi điện phòng trường hợp con lo lắng cho bố,” ông nói. “Bố ổn cả. Bố nghi ngờ rằng mình sẽ cần một thời gian để ổn định. Bố chạy ầm ầm khắp nhà như hạt đậu trong chai ấy. Bố nhớ lũ vịt.”
Ông không nhắc đến vụ đột kích vào ngôi nhà. Tốt đẹp gì khi khiến Lucy phải nặng lòng với những rắc rối của ông?
“Còn Petrus?” Ông hỏi. “Petrus có chăm sóc cho con không, hay hắn còn mải bận rộn xây nhà cho mình?”
“Petrus đang giúp đỡ con. Ai ai cũng hữu ích cả mà.”
“Bố có thể quay về vào bất kỳ lúc nào con cần bố.
Con chỉ việc nói một tiếng thôi.”
“Cảm ơn bố, David. Có lẽ một ngày nào đó, nhưng không phải bây giờ.”
Ai mà đoán được rằng, con cái là do ông sinh ra, thế mà giờ ông lại phải quỵ lụy cần xin con cái chấp nhận mình?
Vào siêu thị mua sắm, ông thấy mình đứng xếp hàng sau lưng Elaine Winter, Chủ nhiệm khoa trước đây của ông. Bà ta đang đẩy một xe chất đầy đồ, còn ông chỉ xách theo mỗi cái rổ. Bà ta đáp lại lời chào hỏi của ông trong căng thẳng.
“Không có tôi, khoa phát triển sao rồi?” ông hỏi vui vẻ hết sức có thể.
Thực sự rất tốt - đó sẽ là câu trả lời thẳng thắn nhất: Chúng tôi sẽ phát triển rất tốt khi không có anh. Nhưng bà ta quá lịch sự nên không nói ra những lời ấy. “À, vẫn vất vả như thường thôi,” bà ta đáp mơ hồ.
“Bà có khả năng thuê thêm người cơ mà?”
“Chúng tôi đã tiếp nhận một người mới rồi, làm hợp đồng. Một thanh niên trẻ.”
Tôi đã gặp anh ta rồi, ông có thể trả lời như thế. Một thằng nhóc ngu ngốc đúng kiểu, ông có thể nói thêm. Nhưng ông cũng quá lịch sự. “Chuyên môn của cậu ta là gì?” thay vào đó ông hỏi.
“Ngôn ngữ học ứng dụng. Cậu ta đang học ngôn ngữ.”
Quá sức đối với các nhà thơ, quá sức đối với các bậc thầy đã chết. Ông phải nói rằng, họ đã không đủ sức dạy bảo anh ta chu đáo. Nói cách khác, anh ta không chịu lắng nghe cho tử tế.
Người đàn bà đứng trước mặt họ trong hàng đang trả tiền. Vẫn còn thời gian cho Elaine hỏi câu tiếp theo, chắc phải là câu Anh dạo này sao rồi, David?, và ông sẽ trả lời rằng, Rất tốt, Elaine, rất tốt.
“Anh muốn lên trước tôi không?” thay vào đó bà ta đề nghị, hất đầu về phía cái rổ của ông. “Anh mua ít hàng thôi mà.”
“Thôi khỏi cần đâu, Elaine,” ông đáp, sau đó lấy làm sung sướng khi quan sát bà ta bày hết các mặt hàng lên trên quầy: không chỉ có bánh mỳ và bơ mà còn cả những món hàng nhỏ mà người phụ nữ sống một mình này dành tặng bản thân mình - đủ hết các món kem (kem hạnh nhân thực sự, kem nho khô thực sự), bánh quy Italia nhập khẩu, các thanh chocolate - cũng như một gói khăn giấy vệ sinh.
Bà ta trả tiền bằng thẻ tín dụng. Từ phía bên kia hàng rào, bà ta vẫy tay chào tạm biệt ông. Ông đáp lại một cách mạnh mẽ. “Tạm biệt!” ông gọi với qua đầu nhân viên thu ngân. “Cho tôi gửi lời chào đến mọi người nhé!” Bà ta không ngoái đầu nhìn lại.
Theo hình dung ban đầu, vở diễn tập trung vào Lord Byron và tình nhân của ông ta, nữ Công tước Guiccioli. Mắc kẹt trong Biệt thự Guiccioli trong cái nóng mùa hè ngột ngạt ở Ravenna, bị người chồng ghen tuông của Teresa theo dõi, cả hai sẽ lang thang qua các phòng khách tăm tối, hát về cảm xúc bị ngăn trở của mình. Teresa cảm thấy mình như một tù nhân; trong lòng bà ta nung nấu nỗi oán hận, bà ta thúc giục Byron đưa mình đến với một cuộc sống khác. Về phần Byron, ông ta lòng đầy nghi ngờ, cho dù rất khôn ngoan không thể hiện ra. Ông nghi ngờ, những cơn ngây ngất ban đầu của họ sẽ không bao giờ còn lặp lại. Cuộc đời ông ta đã thanh bình trở lại; trong thâm tâm ông ta thèm muốn cuộc đời hưu trí bình lặng; không làm được thế, với một tấm gương hoàn mỹ như ông ta mà nói, chẳng khác gì chết. Những khúc Aria cao vút của Teresa chẳng khơi lên nổi ngọn lửa nào trong lòng ông ta; quãng giọng của chính ông ta, đen tối, bện xoắn vào nhau, trôi qua trên đầu bà ta.
Đó là cách ông hình dung ra vở nhạc kịch này: như một vở nhạc kịch thính phòng về tình yêu và cái chết, với một phụ nữ trẻ say đắm, nồng nàn và một lão già đã từng có thời say sưa, cuồng nhiệt nhưng giờ đã suy sụp; với màn hành động có nhạc nền phức tạp, kéo dài liên tục, hát bằng tiếng Anh, không ngừng lôi kéo người ta hướng về một nước Ý trong tưởng tượng.
Lịch sự mà nói, ý niệm này không đến nỗi tồi. Các nhân vật cân bằng nhau khá tốt; cặp đôi bị mắc kẹt, ả tình nhân bị vứt bỏ đang đập tay liên hồi lên các ô cửa sổ, người chồng ghen tuông. Cả căn biệt thự nữa, với những con khỉ là thú cưng của Byron đang uể oải treo mình trên các ngọn chúc đài, lũ chim công đang om sòm chạy tới chạy lui giữa các đồ đạc nội thất của Naples, tạo nên sự pha trộn hoàn hảo giữa sự vô tận và mục rữa.
Thế nhưng lần đầu tiên ở trang trại của Lucy và một lần nữa ở đây, dự án vẫn không thể chạm tới cốt lõi tâm hồn ông. Có điều gì đó ở dự án này mà ông đã hiểu sai, một điều không xuất phát từ trái tim ông. Một phụ nữ đang than thở với những vì sao, rằng vì đám người hầu do thám nên bà ta cùng nhân tình buộc phải thỏa mãn dục vọng trong tủ chứa đồ - ai thèm quan tâm chứ? Ông có thể tìm những từ ngữ cho Byron, nhưng với một Teresa lịch sử đã truyền lại cho ông - trẻ trung, tham lam, ngang ngạnh, nóng nảy - lại không ăn dơ với thứ âm nhạc ông từng mơ đến, thứ âm nhạc với những bản hòa âm, dù mang vẻ đẹp gợi tình nhưng vẫn tiềm ẩn ý mỉa mai, mà ông nghe thấy điềm báo trước trong tai trong.
Ông thử một đoạn khác. Bỏ các trang nốt nhạc mình đã viết, bỏ đoạn mới cưới sỗ sàng, quá chóng vánh với lão Milord người Anh như bị cầm tù, ông cố gắng nâng tuổi Teresa lên quãng trung niên. Teresa mới mẻ là một góa phụ nhỏ nhắn, buồn bã sống trong Biệt thự Gamba cùng người cha già, quản lý công việc nhà, thắt chặt hầu bao, luôn để ý không cho phép lũ người hầu ăn cắp đường. Ở phiên bản mới, Byron đã chết từ lâu; Thứ duy nhất mà Teresa mong muốn gìn giữ đến tận muôn đời, niềm an ủi trong những đêm dài cô đơn của bà ta, là một cái rương đầy những lá thư và đồ lưu niệm bà ta giấu dưới giường, những thứ mà bà ta gọi là reliquie, là thứ mà những đứa cháu gái của bà ta hăm he mở ra sau khi bà ta chết, rồi đọc kỹ trong kinh ngạc.
Đây là nữ anh hùng mà ông lúc nào cũng tìm kiếm ư? Liệu Teresa già nua có chiếm trọn trái tim ông như bây giờ trái tim ông đang bị Teresa tuổi trẻ thu hút không?
Thử thách của thời gian thật nghiệt ngã với Teresa. Với vòng ngực đồ sộ, tấm thân bè bè, đôi chân ngắn tũn, trông bà ta giống mụ nông dân, một contadina, hơn là một ả quý tộc. Nước da mà Byron từng ngưỡng mộ giờ đã hóa ửng đỏ; vào mùa hè, những đợt bệnh suyễn không ngừng tấn công khiến bà ta thở khò khè.
Trong thư từ viết cho bà ta, Byron gọi bà ta là Bạn tôi, rồi Tình yêu của tôi rồi Mãi mãi Tình yêu của tôi. Nhưng vẫn tồn tại những lá thư trái ngược, những lá thư không bao giờ đến tay bà ta và đã bị thiêu hủy. Trong số này, gửi cho những người bạn Anh của mình, Byron đã khiếm nhã khi liệt bà ta vào danh sách những mỹ nhân Ý mình từng chinh phục, đùa cợt về chồng bà ta, bóng gió nhắc đến những người đàn bà trong giới của bà ta từng lên giường với mình. Trong nhiều năm kể từ sau khi Byron chết, bạn bè ông ta đã viết ra hết hồi ức này đến hồi ức khác, dựa theo những lá thư của ông ta. Sau khi chinh phục Teresa trẻ trung từ tay người chồng, kể lại cho bao nhiêu người nghe, Byron chẳng bao lâu đã phát chán bà ta; ông thấy bà ta đúng là óc bã đậu; ông ở lại với bà ta chẳng qua chỉ vì bổn phận; chính vì muốn thoát khỏi bà ta mà ông đã giong thuyền ra khơi đến Hy Lạp, đến với cái chết của mình.
Những lời phỉ báng của họ khiến bà ta tổn thương nhanh chóng. Những tháng năm của bà ta với Byron tạo thành đỉnh cao trong cuộc đời bà ta. Tình yêu của Byron là tất cả những gì khiến họ xa nhau. Không còn người tình bên cạnh, bà ta chẳng còn gì: một người đàn bà đã qua thời xuân sắc, không có triển vọng, sống mòn từng ngày tại một thị trấn heo hút, buồn chán, thi thoảng đi chơi với mấy bà bạn, xoa bóp đôi chân cho ông bố già mỗi khi đau đớn, và ngủ một mình.
Liệu ông có thể tìm thấy trong trái tim mình tình yêu với người đàn bà mộc mạc, tầm thường này không? Liệu tình yêu ông dành cho bà ta có đủ để viết nên một bản nhạc dành cho bà ta? Nếu không thể, thì còn lại gì cho ông?
Ông trở lại với cảnh mà giờ đây phải được xem là cảnh mở màn. Khi thêm một ngày nóng nực nữa sắp kết thúc. Teresa đứng bên ô cửa sổ trên tầng hai trong căn nhà của cha mình, nhìn ra các đầm lầy và bụi thông của vùng Romagna xa đến tận mặt biển Adriatic đang lấp lánh ánh mặt trời. Dấu chấm hết của khúc dạo đầu; một sự thinh lặng; bà ta hít một hơi thở sâu. Byron của em, bà ta hát, giọng bà ta đong đầy nỗi u sầu. Đáp lại là tiếng kèn clarinet cô độc, nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt lịm. Byron của em, bà ta lại lên tiếng, lần này mạnh mẽ hơn.
Byron của bà, ông ta đang ở đâu? Byron đã lạc lối rồi, đó là câu trả lời. Byron đi vơ vẩn giữa những bóng râm. Cả bà nữa cũng lạc lối, Teresa mà ông ta đã yêu, người con gái tuổi mười chín với những lọn tóc quăn vàng óng ả, chỉ cần trông thấy quý ông người Anh hống hách ấy, nàng như được sống trong niềm vui bất tận, rồi sau đó nàng vuốt ve lông mày ông khi ông gối đầu lên bộ ngực trần của nàng, hít thở sâu, khoan khoái ngủ thật ngon sau đam mê bùng cháy.
Byron của em, bà ta lại hát lần thứ ba; và chẳng hiểu từ đâu ra, như thể từ những hang động của thế giới ngầm, một giọng hát cất lên trả lời, nao núng và kỳ quái, giọng hát của một hồn ma, giọng hát của Byron. Em đang ở đâu? ông ta hát; tiếp theo là một từ bà không hề muốn nghe; Secca, khô khốc. Đã cạn kiệt rồi, nguồn gốc của mọi thứ.
Giọng của Byron thật yếu ớt, thật ngập ngừng đến nỗi khiến Teresa phải hát lại cho ông ta nghe những ca từ của chính ông ta, cứ thế giúp đỡ ông ta qua từng hơi thở, kéo ông ta trở về với cuộc sống: đứa con của bà ta, cậu bé của bà ta. Em ở đây, bà ta hát, cổ vũ ông ta, cứu vớt ông ta không chìm trong tuyệt vọng. Em là nguồn gốc của anh. Anh còn nhớ chúng ta đã cùng nhau đến thăm mùa xuân của Arquà như thế nào không? Cùng bên nhau, anh và em. Em từng là Laura của anh. Anh còn nhớ không?
Từ đây, câu chuyện phải diễn ra như thế: Teresa hát thay cho người yêu; còn ông, người đàn ông trong ngôi nhà bị lục soát, đang hát thay cho Teresa. Thật ra là thằng khập khiễng dìu thằng què chân.
Làm việc nhanh chóng hết sức mình, bám chặt vào Teresa, ông cố gắng phác thảo những trang mở đầu của của lời nhạc kịch. Ông tự nhủ mình phải viết những lời ấy ra giấy. Xong việc này rồi mọi chuyện về sau sẽ dễ dàng hơn nhiều. Sẽ có đủ thời gian nghiên cứu những bậc thầy - như Gluck chẳng hạn - những giai điệu bay bổng, có thể - ai mà biết chứ - cả những ý tưởng bay bổng nữa.
Nhưng dần dần từng bước, khi ông bắt đầu sống trọn vẹn hơn những ngày tháng của mình với Teresa và Byron đã chết, ông càng thấy rõ rằng những ca khúc ăn cắp sẽ không đủ hay, rằng cả hai con người ấy sẽ đòi hỏi thứ âm nhạc của riêng mình. Và rồi ngạc nhiên thay, thứ âm nhạc ấy chợt ùa đến từng chút từng chút. Đôi khi đường nét của một cụm từ xuất hiện trước mắt ông khi ông còn chưa kịp hiểu bản thân cái cụm từ ấy nghĩa là gì, thi thoảng những từ ngữ ấy khơi gợi lên nhịp điệu; thi thoảng là cái bóng của một giai điệu, cứ vơ vẩn suốt mấy ngày trên vành tai, tự trải ra rồi xuất hiện đầy thiêng liêng. Hơn nữa, khi hành động này bắt đầu diễn ra, nó lại đánh thức những đoạn chuyển âm và chuyển tiếp thích hợp riêng mà ông cảm nhận trong máu mình, ngay cả khi trong tay ông chẳng có nguồn kiến thức nhạc lý nào giúp ông nhận ra chúng.
Ngồi bên chiếc đàn dương cầm, ông bắt tay xâu chuỗi lại rồi viết ra những khúc dạo đầu của phần nhạc. Nhưng có chuyện gì đó với âm thanh của cây đàn cản trở ông: quá tròn trịa, quá tự nhiên, quá phong phú. Từ căn gác mái, từ một chiếc thùng thưa đựng đầy những cuốn sách cũ và đồ chơi của Lucy, ông lấy ra cây băng cầm bảy dây nhỏ hình dáng lạ lùng ông từng mua cho cô trên các con phố KwaMashu, khi cô hẵng còn bé. Với sự hỗ trợ của cây băng cầm, ông bắt đầu viết ký hiệu âm nhạc để Teresa, lúc này đang chìm trong tang tóc, đang giận dữ, sẽ cất lên tiếng hát cho người tình đã chết của mình, và rằng Byron với chất giọng yếu ớt kia sẽ đáp lại lời bà ta từ xứ sở của bóng tối.
Ông theo dấu nữ Bá tước vào thế giới ngầm của bà ta, hát thay bà ta hay ngâm nga giọng hát của bà ta sâu càng bao nhiêu, ông càng kinh ngạc khi thấy mình bị tách ra khỏi bà ta, biến thành thứ âm thanh lanh canh ngu ngốc của cây băng cầm đồ chơi. Ông lặng lẽ từ bỏ những khúc Aria gợi tình ông đã từng mơ sẽ dành tặng bà ta; từ đó chỉ còn một bước nhỏ nữa thôi là ông sẽ tặng cả nhạc cụ này vào tay bà ta. Thay vì hiên ngang đi khắp sân khấu, giờ đây Teresa nhìn trừng trừng ra các đầm lầy xa tận đến những cánh cửa địa ngục, ôm trong tay cây đàn mandolin, bản thân bà như hòa cùng một nhịp đưa ca từ vút cao; trong khi ở bên cạnh, một bộ ba thận trọng mặc quần ống túm (chơi cello, flute và kèn fagot) lấp đầy những giờ giải lao hoặc thi thoảng nhận xét giữa các đoạn thơ.
Ngồi tại bàn mình nhìn ra khu vườn cây cối mọc um tùm, ông lấy làm lạ trước những gì cây đàn băng cầm nhỏ bé đang dạy mình. Sáu tháng trước, ông đã nghĩ cái nơi ma ám của riêng ông trong vở Byron tại Ý sẽ là nơi nào đó giữa nhà của Teresa và nhà của Byron: giữa khao khát kéo dài mùa hè ân ái nóng bỏng và sự miễn cưỡng tỉnh lại sau giấc ngủ dài lãng quên. Nhưng ông đã lầm. Rốt cuộc thứ đang được đánh thức trong ông không phải là hình ảnh gợi tình, không phải hình ảnh bi thương, mà là vở kịch vui. Trong vở nhạc kịch ông không phải là Teresa, không phải là Byron thậm chí không phải là sự pha trộn của cả hai: ông bị cầm tù trong chính thứ âm nhạc đó, trong căn hộ, trong tiếng vỗ bé nhỏ vào những sợi dây đàn băng cầm, giọng hát căng lên muốn vùng thoát khỏi thứ nhạc cụ lố bịch này nhưng liên tục bị kiềm chế, như một con cá trên sợi dây câu.
Vậy ra đây là nghệ thuật, ông nghĩ, và đây chính là hoạt động nghệ thuật! Thật lạ lùng làm sao! Thật hấp dẫn làm sao!
Ông mất cả một ngày trời trong vòng tay nắm chặt của Byron và Teresa, sống nhờ cà phê đen và bữa sáng là ngũ cốc. Tủ lạnh đã trống rỗng, giường ngủ của ông thì không dùng được; những chiếc lá bay vào bừa bãi từ ô cửa sổ vỡ. Chẳng vấn đề gì hết, ông nghĩ: cứ để mặc người chết chôn vùi cái chết của họ.
Trong số những nhà thơ mình đã học cách yêu, ông ngâm thơ Byron bằng giọng đều đều khàn khàn của mình, chín âm tiết với nốt đô tự nhiên; nhưng mình thấy cuộc sống (giảm nửa cung xuống nốt pha), là một câu chuyện khác. Plink-plunk-plonk tiếng lan canh trên những sợi dây của cây băng cầm. Tại sao, ôi tại sao anh lại ăn nói như thế? Teresa hát lên một cung dài như trách mắng. Plunk- plink-plonk, những sợi dây vang lên lanh canh.
Bà ta muốn được yêu thương, Teresa, muốn được yêu đến muôn kiếp; bà ta muốn được bay lên cao làm bạn với Laura và Flora của thời dĩ vãng. Còn Byron? Byron sẽ mãi mãi thủy chung đến tận khi chết, nhưng đó là tất cả những gì ông hứa hẹn. Chúng ta sẽ bên nhau mãi mãi cho đến khi một trong hai ta lìa bỏ cõi đời.
Tình yêu của em, Teresa hát, phồng mồm ra phát âm từ đơn âm tiết tiếng Anh béo tròn bà học được trên giường của nhà thơ. Lanh canh, âm thanh những sợi dây vọng lại. Một ngưởi đàn bà đang yêu, đắm đuối trong tình yêu; một con miu trên mái nhà, đang gào lên; những chất protein phức tạp đang cuộn trào trong máu, làm các cơ quan sinh dục sưng phồng lên, khiến những lòng bàn tay đổ mồ hôi và giọng hát đặc lại khi linh hồn quẳng hết những hoài nhớ của mình lên khắp tầng trời. Đó chính là việc Soraya và những người khác đã làm: hút cạn những protein phức tạp ra khỏi dòng máu của ông ta như nọc rắn, để ông ta được nhạy bén và khô ráo. Trong ngôi nhà của cha mình tại Ravenna, Teresa bất hạnh, khi chẳng có ai hút chất độc khỏi người bà ta. Hãy đến với em, Byron của em, bà ta kêu lên: hãy đến với em, hãy yêu em đi! Và Byron, không còn sự sống, tái nhợt như một hồn ma, giễu cợt nhại lại những lời của bà ta: Hãy bỏ anh đi, hãy bỏ anh đi, hãy để anh yên!
Nhiều năm về trước, khi sống tại Ý, ông đã ghé thăm chính cánh rừng này giữa Ravenna và bờ biển Adriatic, nơi một thế kỷ rưỡi trước, Byron và Teresa thường cưỡi ngựa qua. Đâu đó trong số những cái cây chắc là nơi người đàn ông xứ sương mù lần đầu tiên nâng vạt váy của người tình quyến rũ mười tám tuổi, nàng dâu của một người đàn ông khác. Ngày mai, ông có thể bay đến Venice, bắt một chuyến tàu tới Ravenna, nặng nề bước qua những dấu chân ngựa, đi qua đúng cái nơi ấy. Ông đang sáng tạo ra âm nhạc (hay âm nhạc đang sáng tạo ra ông) nhưng ông không sáng tạo nên lịch sử. Trên những thảm lá thông ấy, Byron đã có được Teresa của riêng mình - “e ấp như một nàng linh dương,” ông ta đã gọi nàng như thế - vò nhàu nát quần áo của nàng, bỏ cát vào trong đồ lót của nàng (suốt quãng thời gian ấy, lũ ngựa đứng cạnh đó, không để ý), và từ lúc này, một xúc cảm sinh ra khiến Teresa không ngừng gào lên với ánh trăng trong suốt cả cuộc đời mình, trong cơn sốt khiến ngay cả ông cũng gào lên, theo cách của riêng ông.
Teresa dẫn dắt; ông đi theo bà trang này tiếp trang khác. Thế rồi một ngày, một giọng hát khác cất lên từ bóng tối, một giọng hát ông chưa bao giờ nghe thấy, không nghĩ mình sẽ nghe thấy. Từ những ca từ ông biết giọng hát ấy là của con gái của Byron, Allegra; nhưng nó từ nơi nào bên trong ông vậy? Tại sao cha lại bỏ con? Hãy đến tìm con đi! Allegra gọi. Nóng quá, nóng quá, nóng quá! cô bé than phiền bằng một giai điệu của riêng mình, không ngừng cắt ngang những giọng hát của cặp nhân tình.
Trước tiếng gọi của cô bé năm tuổi phiền phức, chẳng có tiếng trả lời nào vọng đến. Không xinh đẹp, chẳng được yêu thương, bị chính người cha nổi tiếng của mình hắt hỏi, cô bé lăn lóc hết bàn tay này sang bàn tay khác rồi cuối cùng được trao cho các sơ chăm sóc. Nóng quá, nóng quá! cô bé rên rỉ từ trên giường trong tu viện nơi cô ta đang chết dần vì bệnh sốt rét. Tại sao cha lại lãng quên con?
Tại sao cha cô bé không trả lời? Bởi vì ông ta đã có quá đủ những gì mình cần trong cuộc đời này; bởi vì ông ta thà quay lại nơi mình thuộc về, trên bờ biển khác của cái chết, chết chìm trong giấc ngù già nua của mình. Đứa trẻ bé bỏng tội nghiệp của ta! Byron hát, nao núng, không sẵn sàng, quá nhẹ nhàng đến nỗi cô bé không thể nghe thấy. Ngồi về một bên trong bóng tối, bộ ba nhạc công chơi bản nhạc tố ngang như cua, người lên cao, người xuống thấp, đó là âm nhạc của Byron.