ANNABETH
ĐÊM ẤY, ANNABETH NGỦ KHÔNG ác mộng, nhưng như thế chỉ khiến cô thêm khó chịu khi tỉnh giấc – nó giống một khoảng lặng trước cơn bão tố.
Leo neo chiến thuyền ở một cầu tàu trong Cảng Charleston, ngay cạnh con đê biển. Dọc theo bờ biển là khu dân cư cổ kính với những tòa nhà nguy nga, hàng cây cọ và hàng rào bằng sắt uốn. Những khẩu súng thần công cổ chĩa về phía mặt nước.
Khi Annabeth lên đến boong tàu, Jason, Frank và Leo đã đi bảo tàng. Huấn luận viên Hedge bảo rằng họ hứa sẽ quay lại lúc hoàng hôn. Piper và Hazel cũng đã sẵn sàng lên đường, nhưng trước hết Annabeth quay sang chỗ Percy đang đứng tựa mình vào lan can ở mũi tàu, lơ đãng nhìn mặt vịnh.
Annabeth cầm tay cậu. "Cậu sẽ làm gì khi bọn mình đi vắng?"
"Nhảy xuống nước," cậu nói vẻ hết sức bình thường, như một đứa trẻ khác có thể nói, mình sẽ ăn quà vặt. "Mình muốn thử kết nối với những Nereid sống ở đây. Biết đâu họ có thể cho mình vài lời khuyên về cách giải thoát những sinh vật bị giam cầm ở Atlanta. Ngoài ra, mình nghĩ biển sẽ có ích cho mình. Ở trong cái bể nước ấy mình cảm thấy không…. sạch sẽ."
Tóc cậu sẫm màu và rối bù như thường lệ, nhưng Annabeth nhớ tới lọn tóc bạc trước đây ở một bên mái đầu cậu. Khi cả hai bọn họ mười bốn tuổi, họ đã thay nhau (ngoài ý muốn) gánh vác sức nặng của bầu trời. Sự căng thẳng ấy đã để lại cho cả hai bọn họ ít tóc bạc. Trong năm vừa rồi, khi Percy mất tích, rút cuộc lọn tóc bạc đã biến mất trên đầu cả hai đứa, điều ấy khiến Annabeth buồn và có đôi chút lo lắng. Cô cảm thấy cô đã mất đi một biểu tượng của sự gắn bó với Percy.
Annabeth hôn cậu. "Chúc may mắn, Óc Tảo Biển. Trở về với mình đấy, được chứ?"
"Mình sẽ trở về," cậu hứa. "Cậu cũng thế nhé."
Annabeth cố gắng nén cảm giác khó chịu đang tăng dần.
Cô quay về phía Piper và Hazel. "Nào, các quý cô. Hãy đi tìm hồn ma của Battery."
Sau đó, Annabeth đã ước gì mình nhảy xuống biển với Percy. Thậm chí hẳn cô sẽ thích một bảo tàng đầy những hồn ma.
Chẳng phải cô không khoái đi chung với Hazel và Piper. Lúc đầu, khi họ đi bộ dọc theo Battery thì cũng khá là vui. Theo các tấm biển chỉ dẫn, công viên ven biển có tên gọi là Vườn Mũi Trắng. Gió từ đại dương xua tan không khí nóng ẩm của buổi chiều hè, và dưới bóng các cây cọ lùn thì cũng khá là mát mẻ dễ chịu. Dọc hai bên đường là những khẩu thần công thời nội chiến và những bức tượng đồng của các nhân vật lịch sử khiến Annabeth rùng cả mình. Cô nghĩ đến những bức tượng ở thành phố New York trong cuộc chiến tranh với các Titan, đã sống lại nhờ chuỗi lệnh số hai mươi ba của Daedalus. Cô tự hỏi không biết có bao nhiêu bức tượng trên đất nước này thực ra là những người máy bí mật, đang chờ được kích hoạt.
Cảng Charleston long lanh trong nắng. Ở phía bắc và phía nam, những dải đất vươn ra như hai cánh tay ôm lấy vịnh, trong khu vực cảng, cách bờ chừng một dặm, là một hòn đảo với một pháo đài bằng đá. Annabeth loáng thoáng nhớ rằng pháo đài này có vị trí quan trọng trong cuộc nội chiến, nhưng cô cũng không mất nhiều thời gian suy nghĩ về việc đó.
Cô chủ yếu hít thở không khí của biển và nghĩ về Percy. Lạy các thần cô không bao giờ phải chia tay cậu. Cô sẽ không bao giờ còn có thể ra với biển mà không nhớ đến trái tim tan vỡ của mình. Cô nhẹ cả người khi họ rời khỏi đê biển và tiến sâu vào khu vườn.
Công viên không đông người lắm. Annabeth đoán là phần đông cư dân thành phố đã đi nghỉ hè hoặc đang ở nhà ngủ trưa. Ba người đi dạo trên đường Nam Battery, dọc hai bên đường là những biệt thự bốn tầng thời Thuộc địa. Những bức tường gạch phủ đầy dây trường xuân. Các mặt tiền vút cao những cây cột trắng như những ngôi đền La Mã. Những khu vườn trước các biệt thự ăm ắp những nụ hồng, những bụi kim ngân, và những giàn hoa giấy nở rộ. Cứ như thể Demeter đã hẹn giờ để tất cả các loài cây cùng mọc cách đây vài thập kỷ và rồi quên biến mất chuyện phải quay lại kiểm tra xem chúng ra sao.
"Chúng làm mình nhớ đến Rome mới," Hazel nói. "Những ngôi nhà lớn và những khu vườn. Những cây cột và những mái vòm."
Annabeth gật đầu. Cô nhớ lại đã đọc ở đâu đó rằng trước thời kỳ Nội chiến, miền nam nước Mỹ thường so sánh mình với Rome. Ở thời đó, xã hội này chỉ chú trọng đến những kiến trúc thật ấn tượng, danh dự, và tinh thần thượng võ. Và ở mặt trái của xã hội, đó là chế độ nô lệ. Rome đã từng sở hữu nô lệ, một vài người miền Nam nói lý, vậy thì tại sao chúng ta lại không?
Annabeth rùng mình. Cô từng yêu thích kiến trúc ở đây. Những ngôi nhà và những khu vườn rất đẹp đẽ, rất La Mã. Nhưng cô tự hỏi tại sao những thứ đẹp đẽ như vậy lại bị bao bọc bởi một lịch sử thật đen tối. hay là ngược lại nhỉ? Có thể là lịch sử đen tối tạo nên sự cần thiết phải xây dựng nên những thứ đẹp đẽ, để che dấu đi những góc tối của nó.
Cô lắc đầu. Percy chẳng thích gì khi cô trở nên triết lý. Nếu cô thử cố gắng nói chuyện với cậu về điều đó, hẳn là mắt cậu đã lảng đi.
Mấy cô gái kia không nói năng gì mấy.
Piper vẫn tiếp tục nhìn quanh như chờ đợi một cuộc phục kích. Cô ấy nói rằng đã nhìn thấy công viên này trên lưỡi dao của mình, nhưng không giải thích gì hơn. Annabeth đoán là cô ấy sợ phải là thế. Xét cho cùng, lần cuối cùng Piper cố thử giải nghĩa những hình ảnh mà cô nhìn thấy trên lưỡi dao, Percy và Jason suýt nữa đã giết nhau ở Kansas.
Hazel cũng có vẻ bận tâm. Có lẽ cô ấy đang mải mê với cảnh vật xung quanh, hoặc đang lo nghĩ đến anh trai. Trong chưa đầy bốn ngày nữa, Nico sẽ chết, trừ phi họ tìm được cậu và giải thoát cho cậu ta.
Annabeth cũng cảm thấy sức nặng của thời hạn đó đè lên chính cô. Cô luôn luôn có cảm giác lẫn lộn về Nico di Angelo. Cô ngờ rằng cậu ấy thầm thích cô kể từ khi họ giải cứu cậu và Bianca, chị gái của cậu khỏi học viện quân sự ở Maine; nhưng Annabeth chưa bao giờ thấy Nico hấp dẫn. Cậu ấy quá trẻ và tính khí thất thường. Và ở cậu có chút gì đen tối khiến cô không thấy thoải mái.
Tuy thế, cô cảm thấy có trách nhiệm với cậu ấy. Khi họ gặp nhau, cả hai bọn họ đều không biết gì về Hazel, em gái cậu. Lúc đó, chỉ có Bianca là gia đình duy nhất còn sống của cậu. Khi chị ấy qua đời, Nico trở thành một trẻ mồ côi không nhà, lang thang trên thế giới này một mình. Annabeth có thể chia sẻ cảm giác ấy.
Cô mải mê suy nghĩ, đến mức có thể đi vòng vòng quanh công viên này mãi, nhưng Piper đã nắm lấy tay cô.
"Ở kia." Cô ấy chỉ về phía cảng. Cách đó chừng vài trăm mét, một hình thù trắng lấp lánh nổi trên mặt nước. Thoạt tiên, Annabeth nghĩ rằng đó là một cái phao hay một chiếc thuyền nhỏ phản chiếu ánh nắng, nhưng rõ ràng là vật đó phát sáng, và di chuyển êm ái hơn một chiếc thuyền, tiến về phía họ theo một đường thẳng tắp. Khi nó tiến đến gần hơn, Annabeth có thể nói rằng vật ấy có hình thù một phụ nữ.
"Hồn ma," cô nói.
"Đó không phải là hồn ma," Hazel bảo. "Chẳng có hồn ma nào lại phát sáng đến thế."
Annabeth quyết định tin lời cô ấy. Cô không thể tượng tượng mình là Hazel, chết đi khi còn rất trẻ và rồi từ Âm Phủ quay trở về, hiểu rõ về cái chết hơn cả về sự sống.
Như bị thôi miên, Piper đi qua đường tiến về phía rìa đê, chỉ kịp tránh một chiếc xe ngựa đi ngang.
"Piper!" Annabeth kêu lên.
"Chúng ta nên đi theo cô ấy," Hazel nói.
Khi Annabeth và Hazel đuổi kịp Piper, bóng ma hiện hình chỉ còn cách họ vài thước.
Piper trừng trừng nhìn bóng ma như thể hình ảnh của nó làm cô bực bội.
"Là bà ấy." Cô lúng búng.
Annabeth liếc nhìn bóng ma, nhưng nó quá sáng nên cô không thể nhìn được chi tiết. Thế rồi hình ảnh đó hiện lên trên con đê biển và dừng lại ngay trước mặt họ. Ánh sáng dần tan biến.
Annabeth thốt lên kinh ngạc. Người phụ nữ thật là kiều diễm và quen thuộc đến kỳ lạ. Khuôn mặt của bà thật khó tả. Những đường nét của bà không ngừng biến đổi từ một ngôi sao điện ảnh này thành một ngôi sao điện ảnh khác. Đôi mắt bà luôn ánh lên– đôi khi xanh lục, xanh lam hoặc nâu hồ phách. Mớ tóc vàng suông dài của bà lại biến đổi thành tóc nâu sô cô la xoăn lọn.
Annabeth ngay lập tức cảm thấy ghen tị. Cô luôn luôn ước gì mình có mái tóc sẫm. Cô cảm thấy không có ai chịu nhìn nhận cô một cách nghiêm chỉnh chỉ vì cô tóc vàng. Cô luôn luôn phải làm việc chăm chỉ gấp đôi để được công nhận là một nhà chiến lược, một kiến trúc sư hay một cố vấn cấp cao – bất cứ điều gì đòi hỏi trí óc.
Người phụ nữ mặc chiếc váy phồng kiểu miền Nam, y hệt như Jason đã miêu tả. Chiếc váy của bà có phần thân trên bằng lụa hồng bó sát, và chân váy xòe ba tầng viền ren trắng. Bà đeo đôi găng trắng dài và cầm một chiếc quạt lông hồng và trắng.
Mọi thứ trên người bà ta đều được tính toán để khiến Annabeth cảm thấy không tương xứng: Vẻ duyên dáng dễ dàng khi bà ta mặc chiếc váy của mình, lớp trang điểm kín đáo mà hoàn hảo, cách bà ta tỏa ra vẻ quyến rũ rất nữ tính khiến không người đàn ông nào cưỡng lại được.
Annabeth nhận thấy sự ghen tị của mình là vô lối. Người phụ nữ kia khiến cho cô cảm thấy như vậy. Trước đây cô đã từng cảm thấy như thế này. Cô nhận ra người phụ nữ, mặc dù khuôn mặt bà thay đổi từng giây, càng lúc càng đẹp hơn.
"Aphrodite," cô nói.
"Venus?" Hazel thốt lên kinh ngạc.
"Mẹ," Piper nói, chẳng chút nhiệt tình.
"Các cô gái!" Nữ thần dang tay như thể muốn nhận một cái ôm tập thể.
Ba á thần không tuân thủ. Hazel lùi lại nấp trong bóng cây cọ lùn.
"Ta rất mừng là các cô đến đây." Aphrodite nói. "Chiến tranh sắp diễn ra. Không thể tránh khỏi đổ máu. Và chỉ có thể làm một điều duy nhất."
"Ơ… và đó là?" Annabeth thử.
"Gì cơ, uống trà và trò chuyện, dĩ nhiên rồi. Đi với ta!"
Aphrodite rất biết cách mở tiệc trà.
Bà dẫn họ vào tạ đình ở giữa khu vườn – một ngôi nhà gỗ nhỏ với cột chống, trong đó đã có một chiếc bàn được bày biện sẵn đồ bạc, tách sứ, và dĩ nhiên một bình trà bốc khói, hương thơm biến đổi dễ dàng như chính bề ngoài của Aphrodite – lúc là hương quế, khi thơm mùi nhài, lúc lại tỏa mùi bạc hà. Có những đĩa đựng đủ loại bánh quy và bánh ngọt, bơ tươi và mứt – tất cả chúng, theo ý của Annabeth, đều làm người ta béo phì đến khó tin, trừ phi, dĩ nhiên, nếu ta là một nữ thần tình yêu bất tử.
Aphrodite ngồi – hay đúng hơn là ngự ở trung tâm của sự chú ý – trên một chiếc ghế đan hình đuôi công đan bằng cành liễu gai. Bà rót trà và cắt bánh mà không làm dính một vụn nhỏ nào vào váy áo và dáng điệu của bà thật hoàn hảo, nụ cười thật mê li.
Càng ngồi lâu, Annabeth càng thấy ghét bà ta.
"Ồ, các cô gái ngọt ngào của ta," nữ thần nói. "Ta thực lòng yêu thích Charleston! Những đám cưới mà ta đã dự ở tạ đình này đều khiến ta rơi nước mắt. Và những dạ hội duyên dáng của Miền Nam thủa xa xưa. À, tất cả đều đáng yêu. Rất nhiều tòa nhà ở đây vẫn còn bày tượng ta trong vườn, dù họ gọi ta là Venus."
"Bà là ai?" Annabeth hỏi. "Venus hay Aphrodite?"
Nữ thần nhấp một ngụm trà. Mắt bà lấp lánh tinh quái. "Annabeth Chase, cô đã lớn lên thành một quý cô khá xinh đẹp. Tuy thế, cô nên làm gì đó với mái tóc mình. Và Hazel Levesque, quần áo của cô -"
"Quần áo của tôi?" Hazel nhìn xuống chiếc quần bò nhàu nát của mình, vô thức, nhưng ngạc nhiên, như thể cô không hiểu được quần cô có vấn đề gì.
"Mẹ!" Piper nói. "Mẹ làm con xấu hổ đấy."
"À, ta không hiểu vì sao đấy," nữ thần đáp. "Piper, chỉ vì con không đánh giá cao lời khuyên của ta về thời trang, không có nghĩa là những người khác cũng như vậy. Ta có thể nhanh chóng thay đổi diện mạo cho Annabeth và Hazel, có thể là với một chiếc váy dạ hội như của ta - "
"Mẹ ơi!"
"Thôi được," Aphrodite thở dài. "Để trả lời câu hỏi của cô, Annabeth, ta vừa là Aphrodite, vừa là Venus. Không như một số vị thần Olympus khác, từ thời này sang thời khác, ta không thay đổi mấy. Thực ra, ta nghĩ rằng ta chẳng hề già đi chút nào!" Những ngón tay bà lướt trên khuôn mặt mình đầy vẻ tự hào. "Rút cuộc, tình yêu là tình yêu, Hi Lạp hay La Mã thì vẫn thế. Cuộc nội chiến này cũng chẳng ảnh hưởng nhiều đến ta như đến người khác."
Tuyệt thật, Annabeth nghĩ. Mẹ cô, vị thần Olympus thông tuệ nhất, biến thành một người mất trí, lẩn thẩn trong ga tàu điện ngầm. Và trong số tất cả các thần có thể giúp đỡ được họ, chỉ có những thần không bị ảnh hưởng nhiều bởi chuyện La Mã hay Hi Lạp như Aphrodite, Nemesis, và Dionysus. Tình yêu, báo thù và rượu vang. Rất có ích.
Hazel nhấm nháp một chiếc bánh qui đường. "Chiến tranh còn chưa bắt đầu mà, thưa bà."
"Ồ, Hazel yêu quí." Aphrodite gập chiếc quạt lại. "Thật là lạc quan, nhưng các người sẽ có những ngày đau khổ trước mắt. Dĩ nhiên là chiến tranh sẽ đến. Tình yêu và chiến tranh luôn là bạn đồng hành. Chúng là đỉnh cao cảm xúc của loài người! Sự độc ác và lòng tốt, vẻ đẹp và sự xấu xí."
Bà mỉm cười với Annabeth như đã biết rằng lúc nãy Annabeth đã nghĩ về Miền Nam thủa xưa.
Hazel đặt chiếc bánh qui xuống. Cô gái có chút vụn bánh dính vào cằm, và Annabeth rất thích việc Hazel hoặc không biết hoặc không hề quan tâm đến điều đó.
"Ý bà là gì," Hazel hỏi, "Những ngày đau khổ?"
Nữ thần cười vang như thể Hazel là một con cún ngộ nghĩnh. "À, Annabeth sẽ có vài gợi ý cho cô. Ta từng có lần hứa sẽ làm cho đời sống tình yêu của cô ta thú vị mà. Và ta đã làm phải không nào?"
Chỉ chút nữa là Annabeth bẻ gãy quai tách trà. Bao nhiêu năm, trái tim cô đã bị giằng xé. Đầu tiên thì có Luke Castellan, rung động đầu đời của cô, người chỉ coi cô như em gái nhỏ; Rồi thì anh ta trở nên hắc ám và quyết định rằng anh ta thích cô – ngay trước khi anh ta chết. Sau đó đến lượt Percy, kẻ làm cô bực mình nhưng cũng ngọt ngào, thế nhưng cậu lại có vẻ đổ mê mệt Rachel, và vài lần cậu suýt chết. Cuối cùng Annabeth cũng dành được Percy về mình, thế rồi sáu tháng sau cậu biến mất và mất luôn trí nhớ.
"Thú vị." Annabeth nói. "Là một cách nói rất nhẹ nhàng."
"À, ta không thể nhận trách nhiệm về mọi rắc rối của cô được," nữ thần nói. "Nhưng ta thích những bước ngoặt và khúc quanh trong chuyện tình. Ồ, tất cả các cô đều là những câu chuyện tuyệt vời – các cô gái. Các cô khiến ta rất tự hào!"
"Mẹ," Piper nói. "Lý do gì đã khiến mẹ ở đây?"
"Hừm? Ồ, ý con là ngoài việc uống trà ư? Ta thường hay tới đây. Ta thích phong cảnh, thức ăn và không khí ở nơi này – người ta có thể đánh hơi thấy sự lãng mạn và trái tim tan vỡ trong không khí, có phải không? Từ hàng thế kỷ ấy chứ."
Bà chỉ vào tòa nhà đứng gần đó. "Các cô có nhìn thấy ban công ở tầng áp mái kia không? Chúng ta có một bữa tiệc ở đó đúng vào đêm xảy ra Nội Chiến ở nước Mỹ. Cuộc tấn công vào pháo đài Sumter."
"Chính thế," Annabeth nhớ ra. "Hòn đảo trong khu vực cảng. Đó là nơi bắt đầu trận chiến đầu tiên của cuộc Nội Chiến. Quân đội liên bang miền Nam đã tấn công Liên minh miền Bắc và chiếm lấy pháo đài."
« Ồ, thật là một bữa tiệc ra trò!" Aphrodite nói. "Tứ tấu đàn dây. Tất cả đàn ông mặc những bộ binh phục mới duyên dáng. Còn những chiếc váy của phụ nữ - các cô lẽ ra phải được thấy chúng! Ta đã nhảy với Ares – hay là Mars nhỉ? Ta sợ rằng ta đã hơi phù phiếm. Và rồi những vầng sáng tuyệt đẹp lóe lên trong khu cảng, những tiếng gầm của đại bác khiến đám đàn ông có lý do giương vũ khí lên bảo vệ những người đẹp đang hoảng sợ!"
Trà của Annabeth đã nguội. Cô chưa hề ăn tí gì, nhưng có cảm giác như sắp sửa nôn. "Bà đang nói về khởi đầu của cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử nước Mỹ. Hơn sáu trăm nghìn người đã chết – hơn cả người Mỹ chết trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Nhất và Thứ Hai gộp lại."
"Và đồ uống nữa!" Aphrodite tiếp tục. "À, thực là tuyệt hảo. Đích thân Tướng Beauregard xuất hiện. Ông ấy thực là một tên vô lại. Lúc ấy ông ta đang ở với người vợ thứ hai, nhưng các cô phải thấy cái lối ông ta nhìn Lisbeth Cooper -"
"Mẹ ơi!" Piper quẳng miếng bánh của mình cho lũ bồ câu.
"Ừ, ta xin lỗi," Nữ thần đáp. "Tóm lại cho ngắn gọn, Ta tới để giúp đỡ các người, mấy cô gái ạ. Ta ngờ rằng các cô sẽ chẳng được gặp Hera mấy đâu. Hành trình tìm kiếm nhỏ của các người chẳng khiến cho bà ấy được chào đón trong cung điện. Và các thần khác thì không sẵn sàng cho lắm, bởi họ bị giằng co giữa hai bản ngã La Mã và Hi Lạp. Người nhiều, người ít." Aphrodite nhìn chăm chăm vào Annabeth. "Ta nghĩ là cô đã nói cho các bạn mình biết về mối bất hòa với mẹ mình rồi chứ?"
Má Annabeth nóng bừng lên. Hazel và Piper nhìn cô tò mò.
"Bất hòa á?" Hazel hỏi.
"Một sự tranh cãi thôi," Annabeth nói. "Chẳng có gì đâu."
"Chẳng có gì!" Nữ thần đáp. "Nào, ta không chắc lắm đâu nhé. Athena là vị thần Hi Lạp nhất trong tất cả các vị nữ thần. Nói đúng ra, là chủ nhân của Athens. Khi người La Mã chiếm vào… ồ, họ đã thu nhận nữ thần Athena như một thứ thời trang. Bà ấy trở thành Minerva, nữ thần của các ngành thủ công và sự thông thái. Nhưng người La Mã còn có những thần chiến tranh khác phù hợp với thị hiếu của họ hơn, đáng tin cậy hơn – như là Bellona - "
"Mẹ của Reyna," Piper lẩm bẩm.
"Phải, đúng thế," Nữ thần đồng tình. "Trước đây đã lâu ta có một cuộc trò chuyện dễ thương với Reyna, ở ngay đây, trong công viên. Và những người La Mã còn có Mars, dĩ nhiên rồi. Và muộn hơn, có cả Mithras – chẳng ra Hi Lạp cũng chẳng ra La Mã, nhưng các quân đoàn lại điên cuồng sùng bái. Cá nhân ta luôn thấy rằng ông ta thật ngu ngốc và rởm đời . Dù sao đi nữa, thì người La Mã cũng cho Athena tội nghiệp ra rìa. Họ tước bỏ phần lớn tầm quan trọng quân sự của bà ấy. Người Hi Lạp không bao giờ tha thứ cho người La Mã vì sự xúc phạm đó. Athena cũng vậy."
Tai Annabeth ù lên.
"Dấu hiệu của Athena," cô nói. "Nó dẫn tới một bức tượng, phải không ạ? Nó dẫn tới bức tượng đó."
Aphrodite mỉm cười. "Cô thông minh lắm, y như mẹ mình. Tuy thế, nên hiểu rằng, các anh chị em của cô, con cái của Athena, đã tìm kiếm từ bao thế kỷ. Chưa ai thành công và thu hồi được bức tượng. Trong khi đó, họ đã tiếp tục duy trì mối thù truyền kiếp của người Hi Lạp đối với người La Mã. Mọi cuộc nội chiến… biết bao nhiêu máu đổ và những trái tim tan vỡ… phần lớn đều được con cái của Athena sắp đặt."
"Điều đó…" Annabeth những muốn nói không thể, nhưng cô nhớ lại những lời cay đắng của Athena trong Nhà ga Trung Tâm, mắt cháy bừng sự căm ghét.
"Lãng mạn hả?" Aphrodite gợi ý. "Ừ, ta đoán là vậy."
"Nhưng…" Annabeth cố gắng xua đi lớp sương mờ trong trí óc. "Dấu hiệu của Athena, chúng được sắp đặt ra sao? Đó là một loạt các manh mối, hay một đường mòn do Athena tạo dựng -"
"Hừm." Aphrodite tỏ vẻ buồn chán một cách lịch thiệp. "Ta không thể nói được. Ta không tin rằng Athena đã tạo dựng Dấu hiệu một cách có ý thức. Nếu bà ấy biết bức tượng của mình ở đâu, bà ta đơn giản chỉ việc bảo cô tới đó mà tìm. Không…. Ta đoán rằng Dấu hiệu đó giống như một đường mòn tâm linh đầy những mảnh vụn bánh mì. Đó là sự liên kết giữa bức tượng và những đứa con của nữ thần. Bức tượng muốn được tìm ra, các cô hiểu không, nhưng chỉ có thể được tìm thấy bởi người xứng đáng nhất."
"Và hàng ngàn năm qua," Annabeth nói, "không ai làm được."
"Khoan đã," Piper hỏi. "Chúng ta đang nói về bức tượng nào thế?"
Nữ thần cười vang. "Ồ. Ta chắc rằng Annabeth có thể kể lại cho cô. Dù thế nào chăng nữa, dấu vết các cô cần đang ở quanh đây: một tấm bản đồ kiểu đó do con cái của Athena để lại vào năm 1861 – một sự tưởng nhớ để cô bắt đầu đường đi của mình, một khi cô tới được Rome. Nhưng như cô đã nói đó, Annabeth Chase, chưa có ai thành công trong việc đi theo Dấu hiệu của nữ thần Athena cho tới cùng. Ở đó, cô sẽ đối mặt với nỗi sợ hãi khủng khiếp nhất của cô – nỗi sợ hãi của mọi đứa con của nữ thần Athena. Và dù cô có sống sót, cô sẽ sử dụng phần thưởng của mình để làm gì? Cho hòa bình hay chiến tranh?"
Annabeth lấy làm mừng vì có tấm khăn trải bàn, bởi dưới gầm bàn, hai chân cô run rẩy. "Tấm bản đồ đó," cô nói, "nó ở đâu?"
"Các cậu!" Hazel chỉ tay lên trời.
Lượn tròn quanh những cây cọ lùn là hai con đại bàng lớn. Từ trên cao, đang hạ cánh rất nhanh là chiếc xe do mấy con pegasus kéo. Có vẻ như màn nghi binh của Leo với chiếc bàn phụ Buford đã không thành – ít ra là chẳng được bao lâu.
Aphrodite vẫn phết bơ lên bánh ngọt như thể bà có khối thời gian trên đời. "Ồ, tấm bản đồ đó đang ở Pháo Đài Sumter, tất nhiên rồi." Bà chỉ con dao dính bơ về phía hòn đảo nằm trên mặt nước ngoài cảng. "Có vẻ như những người La Mã đang đến đây để chặn các cô. Nếu ta là các cô ta sẽ mau quay về tàu. Các cô có muốn gói ít bánh ngọt uống trà không?"