Chiếc sedan Volvo của Susan dừng lại dưới bóng một hàng rào lưới thép cao hơn 3 mét. Một nhân viên an ninh trẻ đặt tay lên nóc xe.
“Xin hãy xuất trình giấy tờ tùy thân.”
Susan làm theo và được cho vào sau nửa phút chờ đợi như thường lệ. Nhân viên an ninh quét tấm thẻ của cô qua một máy quét có kết nối máy tính. Cuối cùng, anh ta ngước lên. “Cảm ơn, cô Fletcher.” Anh ta ra hiệu một cách kín đáo và cánh cổng mở ra.
Đi tiếp 800 mét nữa, Susan lặp lại toàn bộ quy trình trước một hàng rào điện cũng đường bệ không kém. Thôi nào, các vị... Tôi mới chỉ tới đây có 1 triệu lần thôi mà.
Khi cô lại gần chốt kiểm tra cuối cùng, một nhân viên an ninh vạm vỡ mang súng tiểu liên cùng hai con chó nghiệp vụ liếc nhìn thẻ công vụ của cô và vẫy tay cho cô qua. Cô chạy xe dọc theo đường Canine thêm 230 mét nữa tới Khu Nhân viên C. Thật không thể tin nổi, cô nghĩ. Với 26.000 nhân viên và 12 tỷ đô la ngân sách, hẳn là họ có thể vượt qua được một dịp cuối tuần mà không có mình chứ. Susan lái xe vào chỗ đỗ của mình và tắt động cơ.
Sau khi qua sân tiểu cảnh và bước vào tòa nhà chính, cô đi qua thêm hai chốt kiểm tra trong nhà nữa, rồi cuối cùng tới đường hầm không có cửa sổ nối với dãy nhà mới. Một buồng quét giọng nói chắn lối vào của cô.
CƠ QUAN AN NINH QUỐC GIA
TRUNG T M MẬT MÃ
CHỈ DÀNH CHO NH N VIÊN CÓ TH ̉M QUYỀN
Người nhân viên an ninh có vũ trang nhìn lên. “Xin chào, cô Fletcher.”
Susan mỉm cười mệt mỏi. “Chào John.”
“Không nghĩ lại gặp cô hôm nay.”
“Phải, tôi cũng thế.” Cô cúi người về phía chiếc microphone hình bầu dục. “Susan Fletcher,” cô nói rành mạch. Máy tính lập tức xác định cường độ các tần số trong giọng nói của cô, và cánh cửa mở ra sau một tiếng “tách”. Cô bước qua.
Người nhân viên an ninh ngưỡng mộ nhìn theo Susan khi cô bắt đầu bước xuống lối đi láng xi măng. Anh ta nhận thấy đôi mắt màu hạt phỉ mạnh mẽ của cô hôm nay có vẻ lơ đãng, song hai má lại ửng hồng tươi tắn, và mái tóc vàng nâu dài tới vai trông như vừa được tạo kiểu bằng máy sấy. Vương lại sau cô là mùi hương thoang thoảng của phấn Johnson’s Baby. Đôi mắt anh ta hạ xuống thân hình mảnh mai của cô tới chiếc áo sơ mi trắng với bóng áo ngực chỉ có thể thấy lờ mờ bên trong, rồi chiếc váy kaki dài tới đầu gối, và cuối cùng xuống tới đôi chân cô... Đôi chân của Susan Fletcher.
Thật khó lòng tưởng tượng nổi chủ nhân của chúng sở hữu IQ lên tới 170, anh ta trầm ngâm tự nhủ.
Anh ta dõi theo cô hồi lâu. Rồi cuối cùng, anh ta lắc đầu khi dáng cô đã khuất đằng xa.
Khi Susan đi tới cuối đường hầm, một cánh cửa tròn như cửa hang xuất hiện trước mặt cô. Những chữ cái to tướng ghi:
MẬT MÃ
Cô thở dài rồi đưa bàn tay vào trong hộp nhận mã đặt chìm trong tường và bấm mã PIN 5 chữ số của mình. Vài giây sau, khối cửa thép nặng 12 tấn bắt đầu quay. Cô cố gắng tập trung, song mọi ý nghĩ của cô đều hướng cả về anh.
David Becker. Người đàn ông duy nhất cô yêu. Giáo sư chính thức trẻ nhất tại Đại học Georgetown và là một chuyên gia ngoại ngữ xuất sắc, anh thực sự là một nhân vật nổi tiếng trong giới hàn lâm. Được sinh ra với một trí nhớ phi thường và tình yêu nồng nhiệt dành cho ngôn ngữ, anh đã làm chủ 6 thổ ngữ châu Á cũng như tiếng Tây Ban Nha, Pháp và Ý. Những bài giảng của anh ở trường đại học về từ nguyên học cùng ngôn ngữ học luôn đông tới mức nhiều sinh viên phải đứng để dự, và anh luôn phải ở lại muộn để trả lời một trận mưa câu hỏi. Anh giảng dạy đầy thuyết phục và nhiệt tình, có vẻ không hề để tâm tới những ánh mắt đầy ngưỡng mộ từ các thính giả đang say sưa.
Becker có mái tóc đen - một người đàn ông 35 tuổi vạm vỡ, trẻ trung với đôi mắt xanh lục sắc sảo và một trí tuệ sắc sảo không kém. Anh có quai hàm mạnh mẽ và những đường nét chắc khỏe như thể được tạc trên đá cẩm thạch. Cao hơn 1 mét 82, Becker di chuyển trên sân bóng quần nhanh hơn bất cứ đồng nghiệp nào của mình. Sau khi đánh bại hoàn toàn đối thủ, anh liền làm dịu mình bằng cách vục đầu xuống vòi nước uống và xả ướt mái tóc đen dày. Rồi, trong khi mái tóc còn nhỏ nước, anh sẽ đãi đối thủ một ly nước quả lắc và bánh vòng.
Như tất cả các giáo sư trẻ khác, lương của David tại trường đại học khá khiêm tốn. Thỉnh thoảng, khi cần gia hạn thẻ hội viên câu lạc bộ bóng quần hoặc thay lưới cho chiếc vợt Dunlop cũ của mình, anh kiếm thêm tiền bằng cách dịch thuật cho các cơ quan chính phủ ở Washington và vùng lân cận. Và chính trong một dịp như thế mà anh đã gặp Susan.
Đó là một buổi sáng se lạnh trong kỳ nghỉ mùa thu, khi Becker trở về căn hộ ba phòng tại trường của anh sau cuộc chạy bộ buổi sáng và thấy máy trả lời tự động của mình đang nhấp nháy. Anh vừa uống một cốc nước cam vừa lắng nghe đoạn ghi âm. Lời nhắn đó cũng giống rất nhiều lời nhắn khác - một cơ quan chính phủ đề nghị anh tham gia một công việc dịch thuật trong vài giờ ngay trong sáng hôm đó. Điều lạ lùng duy nhất là Becker chưa bao giờ nghe nói tới cơ quan này.
“Họ xưng tên là Cơ quan An ninh Quốc gia,” Becker nói, gọi điện cho vài đồng nghiệp để dò hỏi thông tin.
Câu trả lời vẫn luôn như nhau. “Ý cậu là Hội đồng An ninh Quốc gia hả?”
Becker kiểm tra lại lời nhắn. “Không. Họ nói là Cơ quan. NSA.” “Chưa bao giờ nghe nói tới họ.”
Becker tìm kiếm trong Niên giám điện thoại các tổ chức GAO và cũng không thấy thông tin gì cả. Bối rối, Becker gọi điện cho một người bạn chơi bóng quần, một cựu chuyên gia phân tích chính trị chuyển sang làm nhân viên bàn giấy tại Thư viện Quốc hội. David bàng hoàng trước lời giải thích của anh bạn.
Có vẻ như NSA không chỉ tồn tại, mà tổ chức này còn được coi là một trong những cơ quan chính phủ có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Cơ quan này thu thập dữ liệu tình báo điện tử trên toàn cầu và bảo vệ các thông tin mật cho nước Mỹ hơn nửa thế kỷ nay. Chỉ có 3% người Mỹ biết đến sự tồn tại của nó.
“NSA,” người bạn của anh đùa, “có nghĩa là Cơ Quan Không Tồn Tại2.”
2 No Such Agency.
Becker chấp nhận lời đề nghị của cơ quan bí hiểm này với tâm trạng nửa e dè nửa tò mò. Anh lái xe 60 cây số tới khu bản doanh rộng gần 35 hécta của họ nằm ẩn mình trên những quả đồi phủ đầy cây ở Fort Meade, Maryland. Sau một chuỗi vô tận những chốt kiểm tra an ninh, họ phát cho anh một thẻ ra vào sử dụng công nghệ ảnh ba chiều dành cho khách có hiệu lực trong 6 giờ. Rồi anh được tháp tùng tới một cơ sở nghiên cứu quy mô và hiện đại, nơi người ta cho anh biết mình sẽ dành cả buổi chiều để “hỗ trợ mù” cho Ban Mật mã - một nhóm tinh hoa gồm những người thông minh xuất chúng về toán học, hay còn gọi là các chuyên gia giải mã.
Trong giờ đầu tiên, các nhân viên giải mã dường như còn chẳng biết đến sự hiện diện của Becker. Họ xúm lại quanh một chiếc bàn lớn và nói một thứ ngôn ngữ Becker chưa bao giờ nghe tới. Họ nói về mật mã luồng, các thuật toán giả ngẫu nhiên, biến số hạn chế, giao thức không tiết lộ thông tin, các điểm đơn nhất. Becker quan sát và không hiểu gì. Họ viết nguệch ngoạc các biểu tượng lên giấy kẻ ô li, cúi xuống xem xét những bản in ra từ máy tính, và không ngớt tham chiếu với đám ký tự hỗn độn trên màn chiếu phía trên.
JHdja3jKHDhmado/ertwtjlw+jgj328 5jhalsfnHKhhhfafOhhdfgaf/fj37we ohi93450s9djfd2h/HHrtyFHLf89303 95jspjf2j0890Ihj98yhfi080ewrt03 jojr845h0roq+jt0eu4tqefqe//oujw 08UY0IH0934jtpwfiajer09qu4jr9gu ivjP$duw4h95pe8rtugvjw3p4e/ikkc mffuerhfgv0q394ikjrmg+unhvs9oer irk/0956y7u0poikIOjp9f8760qwerqi
Cuối cùng, một người trong số họ giải thích điều Becker vốn đã đoán ra. Mớ ký tự lủng củng là một mật mã - một “văn bản mã hóa” - những nhóm chữ số và chữ cái đại diện cho các từ được mã hóa. Công việc của các nhân viên giải mã là nghiên cứu mật mã và lấy ra từ nó thông điệp gốc, hay “văn bản sạch”. NSA đã mời Becker tới vì họ nghi ngờ rằng văn bản gốc được viết bằng tiếng Quan Thoại, anh cần dịch các biểu tượng khi các chuyên gia giải mã được chúng.
Suốt 2 giờ, Becker dịch một chuỗi vô tận những ký tự tượng hình tiếng Quan Thoại. Nhưng cứ mỗi lần anh đưa cho họ một bản dịch, các nhân viên giải mã lại lắc đầu thất vọng. Có vẻ là mật mã chẳng có ý nghĩa gì. Nóng lòng muốn giúp đỡ, Becker chỉ ra rằng tất cả các ký tự họ đã chuyển cho anh đều có một nét chung - chúng cũng là một phần của bộ chữ Kanji. Ngay lập tức, những tiếng xì xào trong phòng im bặt. Người phụ trách nhóm, một người đàn ông gầy gò cao lênh khênh hút thuốc lá liên tục tên là Morante, quay sang Becker với vẻ hoài nghi.
“Ý anh là những biểu tượng này có nhiều nghĩa?”
Becker gật đầu. Anh giải thích rằng Kanji là một hệ thống chữ viết Nhật Bản dựa trên các ký tự tượng hình Trung Hoa được biến đổi. Anh đã đưa ra bản dịch theo tiếng Quan Thoại vì đó là điều họ yêu cầu.
“Chúa tôi,” Morante bật ho. “Hãy thử bộ chữ Kanji đi.” Như có phép màu, mọi thứ dần dần hé lộ.
Các nhân viên giải mã đều cảm thấy ấn tượng, nhưng dẫu vậy, họ vẫn yêu cầu Becker tiến hành dịch trên bản giải mã bị xáo trộn thứ tự. “Cái này là vì sự an toàn của chính anh,” Morante nói. “Như thế, anh sẽ không biết mình đang dịch cái gì.”
Becker bật cười. Rồi anh nhận thấy không có ai khác cười.
Cuối cùng, khi mật mã cũng được giải xong, Becker không hề biết mình đã giúp đưa ra ánh sáng những bí mật hắc ám nào, nhưng có một điều đã rõ ràng - NSA nhìn nhận việc giải mã hết sức nghiêm túc, tấm séc nằm trong túi Becker có giá trị còn hơn cả một tháng lương ở trường đại học của anh.
Trên đường quay về, qua chuỗi chốt kiểm soát an ninh dọc theo hành lang chính, Becker bị chặn lại bởi một nhân viên an ninh đang cầm ống nghe điện thoại. “Anh Becker, xin hãy chờ ở đây.”
“Có việc gì vậy?” Becker đã không trông đợi cuộc dịch thuật kéo dài đến thế và anh đang có nguy cơ muộn mất trận bóng quần chiều thứ Bảy.
Nhân viên an ninh nhún vai. “Trưởng Ban Mật mã muốn nói chuyện với anh. Cô ấy đang trên đường ra đây.”
“Cô ấy?” Becker bật cười. Anh vẫn chưa hề thấy người phụ nữ nào tại NSA.
“Điều đó có thành vấn đề với anh không?” Một giọng nữ cất lên phía sau lưng anh.
Becker quay lại và lập tức đỏ mặt. Anh nhìn qua tấm thẻ nhân viên cài trên áo sơ mi của người phụ nữ. Trưởng Ban Mật mã của NSA không chỉ là một phụ nữ, mà còn là một phụ nữ quyến rũ theo đúng nghĩa.
“Không,” Becker ấp úng. “Tôi chỉ...”
“Susan Fletcher.” Người phụ nữ mỉm cười, giơ bàn tay mảnh mai của mình ra.
Becker nắm lấy bàn tay đó. “David Becker.”
“Xin chúc mừng, anh Becker. Tôi được biết anh đã hoàn thành công việc hôm nay một cách xuất sắc. Tôi có thể trao đổi thêm với anh được không?”
Becker do dự. “Quả thực, lúc này tôi đang hơi vội.” Anh hy vọng mình không hành xử ngốc nghếch khi từ chối cơ quan tình báo quyền lực nhất thế giới, nhưng trận bóng quần sẽ bắt đầu sau 45 phút nữa, và anh có một tiếng tăm cần gìn giữ: David Becker không bao giờ đến muộn một trận bóng quần... Giờ lên lớp thì có thể, nhưng bóng quần thì không.
“Tôi sẽ nói ngắn gọn thôi,” Susan Fletcher mỉm cười. “Mời anh đi theo lối này.”
Thế là 10 phút sau, Becker đã ngồi trong nhà ăn của NSA thưởng thức bánh nướng xốp và nước ép nam việt quất với vị trưởng Ban Mật mã quyến rũ của NSA, Susan Fletcher. David nhanh chóng thấy rõ chẳng phải nhờ may mắn mà người phụ nữ 38 tuổi này đạt được vị trí cao tại NSA. Cô là một trong những phụ nữ xuất sắc nhất anh từng gặp. Trong khi hai người trò chuyện về mật mã và giải mã, Becker phải cố gắng vất vả để bắt kịp cô. Đây quả là một trải nghiệm mới mẻ và đầy phấn khích với anh.
Và 1 giờ sau, khi Becker rõ ràng đã quên bẵng trận bóng quần của mình, còn Susan hiển nhiên là tảng lờ 3 lời nhắn qua hệ thống liên lạc nội bộ, cả hai người cùng bật cười. Họ ngồi đó, hai bộ óc sở hữu khả năng phân tích cao, được cho là miễn nhiễm với những say mê phi lý trí. Ấy thế nhưng, theo cách nào đó, trong lúc họ ngồi đó trò chuyện về hình thái học ngôn ngữ và các thuật toán tạo số giả ngẫu nhiên, hai người cảm thấy như thể mình là một cặp đôi tuổi mới lớn. Mọi thứ đều thật huyền ảo.
Susan đã không hề đề cập tới lý do thực sự khiến cô muốn nói chuyện với David Becker - việc đề nghị với anh một vị trí thử việc tại Phân Ban Mật mã Châu Á. Khi nghe vị giáo sư trẻ say mê nói về việc giảng dạy, cô có thể thấy rõ rằng anh sẽ không bao giờ rời khỏi giảng đường trường đại học. Susan quyết định không phá tan bầu không khí bằng cách đề cập tới công việc. Cô cảm thấy mình hoàn toàn trở lại là một cô nữ sinh, không điều gì được phép làm hỏng cảm giác này. Và đúng là như thế.
Cuộc tình của hai người diễn ra chậm rãi và lãng mạn - nắm bắt những khung giờ chớp nhoáng bất cứ khi nào thời gian biểu của họ cho phép: những cuộc tản bộ dài trong khuôn viên trường đại học Georgetown, những tách capuccino lúc đêm muộn tại cửa hàng Merlutti’s, thỉnh thoảng dự những cuộc thuyết trình và những buổi hòa nhạc. Susan nhận thấy bản thân mình cười nhiều hơn cô từng nghĩ. Dường như chẳng có thứ gì mà David không thể biến thành một câu chuyện đùa. Một sự giải tỏa đáng giá khỏi những căng thẳng từ vị trí cô đảm nhiệm tại NSA.
Vào một chiều mùa thu se lạnh, họ cùng ngồi trên khán đài chứng kiến đội túc cầu trường Georgetown bị đội Rutger tấn công dồn dập.
“Anh nói là mình chơi môn thể thao nào cơ?” Susan trêu. “Bí quần à?”
Becker rên lên. “Nó là bóng quần.”
Cô ngớ ra nhìn anh.
“Nó giống như bí,” anh giải thích. “Nhưng sân thi đấu nhỏ hơn.”
Susan đẩy anh.
Cầu thủ chạy cánh trái của Georgetown đưa quả phạt góc ra ngoài đường biên, và một tràng la ó phản đối vang lên từ đám đông khán giả. Các cầu thủ hậu vệ hối hả lùi trở về sân nhà.
“Còn em thì sao?” Becker hỏi. “Em có chơi môn thể thao nào không?”
“Em có đai đen trên máy tập leo cầu thang.”
Becker làm bộ khúm núm. “Anh thích môn thể thao mà mình có thể thắng hơn.”
Susan mỉm cười. “Chúng ta đều là những kẻ hiếu thắng, phải không?”
Hậu vệ ngôi sao của Georgetown chặn được một đường chuyền, và trên khán đài tiếng reo hò đồng thanh vang lên. Susan cúi người sang thì thầm vào tai David. “Tiến sĩ.”
Anh quay sang và ngẩn người nhìn cô.
“Tiến sĩ,” cô nhắc lại. “Hãy nói từ đầu tiên nảy ra trong đầu anh.”
Becker nhìn có vẻ ngờ vực. “Tổ hợp từ sao?”
“Quy trình tiêu chuẩn của NSA. Em cần phải biết mình đang đi chơi với ai.” Cô nghiêm khắc nhìn anh. “Tiến sĩ.”
Becker nhún vai. “Seuss3.”
3 Theodor Seuss Geisel: là tác giả sách thiếu nhi, nghệ sĩ hoạt hoạ chính trị và họa sĩ diễn hoạt người Mỹ. Ông được biết đến với bút danh Doctor Seuss (Tiến sĩ Seuss).
Susan cau mày với anh. “Được rồi, hãy thử từ này nhé... ’nhà bếp’.”
Anh không hề do dự. “Phòng ngủ.”
Susan nhướn mày làm duyên. “Được rồi, vậy từ này thì sao... ’dây’.”
“Ruột,” Becker đáp trả.
“Ruột?”
“Phải. Dây ruột. Loại dây căng vợt bóng quần của các nhà vô địch.”
“Vui thật đấy.” Cô than vãn.
“Phân tích của em thế nào?” Becker vặn hỏi.
Susan ngẫm nghĩ một phút. “Anh là một gã cuồng bóng quần có tính khí trẻ con và thất bại thảm hại về tình dục.”
Becker nhún vai. “Nghe có vẻ đúng đấy.”
Mọi thứ cứ diễn ra như thế suốt nhiều tuần. Trong lúc thưởng thức món tráng miệng tại các bữa tối kéo dài hết cả đêm, Becker tuôn ra vô vàn câu hỏi.
Cô đã học toán ở đâu?
Thế nào mà cô lại vào làm việc ở NSA?
Làm sao cô trở nên hấp dẫn đến vậy?
Susan đỏ bừng mặt và thừa nhận rằng cô là một thiếu nữ dậy thì muộn. Gầy nhẳng, cao lêu đêu và vụng về với niềng răng trong suốt những năm cuối thời vị thành niên, Susan kể bà cô Clara từng có lần nói với cô rằng Chúa chuộc lỗi vì vẻ ngoài xấu xí của Susan bằng cách ban cho cô bộ óc. Một sự chuộc lỗi quá vội vã, Becker thầm nghĩ.
Susan giải thích rằng mối quan tâm tới giải mã của mình bắt đầu ở trường trung học cơ sở. Chủ tịch câu lạc bộ tin học, một anh chàng học lớp 8 to đùng đoàng tên là Frank Gutmann đã soạn một bài thơ tình trên máy tính để tặng cô, mã hóa nó bằng một khóa mã thay thế chữ cái bằng chữ số. Susan năn nỉ muốn biết bản mật mã viết gì. Frank đùa bỡn từ chối. Susan mang bản mật mã về nhà và thức trắng đêm với một cây đèn pin dưới tấm chăn cho tới khi khám phá ra bí mật - mỗi con số đại diện cho một chữ cái. Cô cẩn thận giải mã bản mật mã và ngỡ ngàng ngắm nhìn khi những con số dường như ngẫu nhiên biến thành một bài thơ đẹp đẽ một cách kỳ diệu. Ngay vào khoảnh khắc đó, cô biết mình đã yêu - mật mã và giải mã sẽ trở thành cuộc đời cô.
Gần 20 năm sau đó, khi đã nhận bằng thạc sĩ toán của đại học John Hopkins và nghiên cứu lý thuyết số với học bổng toàn phần tại MIT, cô bảo vệ luận án tiến sĩ của mình: Các Phương Pháp, Đề Cương Và Thuật Toán Mật Mã Cho Sổ Tay Ứng Dụng. Có vẻ giáo sư của cô không phải là người duy nhất đọc bản luận án. Không lâu sau đó, Susan nhận được một cuộc điện thoại và một vé máy bay từ NSA.
Bất cứ ai trong lĩnh vực giải mã cũng biết về NSA, đó là ngôi nhà chung của những bộ óc giải mã xuất chúng nhất thế giới. Vào mỗi mùa xuân, khi các tập đoàn tư nhân tiếp cận những nhân tài mới xuất sắc nhất của lực lượng lao động và đề nghị các mức lương điên rồ cùng những lựa chọn sở hữu cổ phần, NSA chăm chú theo dõi và lựa chọn các mục tiêu của mình, rồi sau đó chỉ đơn giản là chen ngang bằng cách ra giá gấp đôi đề nghị tốt nhất đang được mời chào. Cái gì NSA muốn, NSA sẽ mua được. Run lên trước các viễn cảnh, Susan bay tới Cảng hàng không Quốc tế Dulles ở Washington, nơi cô được một lái xe của NSA đón rồi đưa tới Fort Meade.
Có 41 người khác cũng nhận được cuộc điện thoại tương tự vào năm đó. Ở tuổi 28, Susan là người trẻ nhất. Cô cũng là phụ nữ duy nhất. Chuyến thăm hóa ra lại giống một chương trình quan hệ công chúng và một chuỗi các bài đánh giá trí tuệ hơn là một buổi gặp gỡ để thăm dò thông tin. Sang tuần kế tiếp, Susan và 6 người khác được mời quay lại. Cho dù do dự, Susan đã trở lại. Nhóm này lập tức được tách riêng ra. Họ trải qua bài kiểm tra với máy phát hiện nói dối, kiểm tra về thông tin cá nhân, phân tích chữ viết tay, cùng những giờ phỏng vấn dài vô tận, bao gồm cả những cuộc thẩm tra được ghi âm về thiên hướng và thói quen tình dục của họ. Khi người phỏng vấn hỏi Susan liệu cô đã bao giờ quan hệ tình dục với động vật chưa, thiếu chút nữa cô đã bước ra ngoài, nhưng bằng cách nào đó sự bí ẩn đã giúp cô vượt qua - triển vọng được làm việc ở cơ sở mũi nhọn của lý thuyết mã hóa, được bước vào “Cung điện Mật mã”, và trở thành thành viên của câu lạc bộ bí mật nhất thế giới - Cơ quan An ninh Quốc gia.
Becker ngồi mê mẩn lắng nghe câu chuyện của cô. “Họ thực sự đã hỏi liệu em đã từng quan hệ tình dục với động vật chưa à?”
Susan nhún vai. “Một phần của việc kiểm tra thông tin cá nhân thường quy.”
“Vậy...” Becker cố kìm để không cười hết cỡ. “Em đã trả lời thế nào?”
Cô đá anh dưới gầm bàn. “Em đã trả lời họ là không!” Rồi cô nói thêm, “Và đúng là thế cho tới tận tối hôm qua.”
Trong mắt Susan, David gần như đạt tới cảnh giới hoàn hảo nhất theo như cô hình dung. Tiếc thay, anh lại có một khuyết điểm: Mỗi lần họ đi ăn cùng nhau, anh luôn nhất quyết đòi thanh toán tiền. Susan không thích thấy anh bỏ ra cả một ngày lương để trả bữa tối cho hai người, nhưng không thể nào lay chuyển được Becker. Susan học được cách không phản đối, nhưng điều đó vẫn khiến cô áy náy. Mình kiếm được nhiều tiền đến mức không biết tiêu vào đâu cho hết, cô thầm nghĩ. Đáng lẽ mình nên trả tiền.
Dẫu vậy, Susan vẫn đánh giá rằng, ngoại trừ quan điểm ga lăng lỗi thời, David thật lý tưởng. Anh biết đồng cảm, lịch lãm, hài hước và tuyệt hơn tất thảy, anh chân thành quan tâm tới công việc của cô. Dù là trong những chuyến đi tới Smithsonian, những cuộc đạp xe hay làm spaghetti cháy khét trong bếp nhà Susan, David luôn tò mò. Susan trả lời những câu hỏi cô có thể và cung cấp cho David một cái nhìn tổng thể về những gì không phải tuyệt mật của Cơ quan An ninh Quốc gia. Những gì David nghe được khiến anh bị mê hoặc.
Được Tổng thống Truman thành lập lúc 12 giờ 01 phút mùng 4 tháng 11 năm 1952, NSA từng là cơ quan tình báo kín đáo nhất trên thế giới trong gần 50 năm. Bản nguyên tắc thành lập dài 7 trang của NSA đưa ra một nhiệm vụ ngắn gọn: Bảo vệ các liên lạc của chính phủ Hoa Kỳ và thu thập liên lạc của các quốc gia khác.
Nóc tòa nhà hoạt động chính của NSA tua tủa hơn 500 ăng-ten, trong đó có 2 vòm ra-đa đồ sộ trông giống như 2 quả bóng golf khổng lồ. Bản thân tòa nhà cũng rất đồ sộ, rộng hơn 185.000 mét vuông, gấp đôi kích thước trụ sở CIA. Bên trong là hơn 2,4 triệu mét dây điện thoại và hơn 7.000 mét vuông cửa sổ luôn đóng kín.
Susan kể với David về COMINT - Ban Trinh sát toàn cầu của Cơ quan - một lực lượng đông đảo và tinh vi gồm các trạm nghe lén, vệ tinh, điệp viên, điểm ghi âm điện thoại trên toàn thế giới. Hàng nghìn thông báo và cuộc hội thoại được thu thập mỗi ngày, và tất cả đều được gửi cho các chuyên gia phân tích của NSA để giải mã. FBI, CIA và các cố vấn về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đều phụ thuộc vào nguồn tin tình báo của NSA để đưa ra các quyết định của họ.
Becker ngỡ ngàng. “Thế còn giải mã? Em đóng vai trò nào?”
Susan giải thích rằng những thông tin thu thập được thường có nguồn gốc từ các chính quyền nguy hiểm, các phe thù địch và các nhóm khủng bố, rất nhiều trong số đó nằm bên trong biên giới Hoa Kỳ. Những thông điệp liên lạc của chúng thường được mã hóa để giữ bí mật phòng khi rơi vào nhầm tay, điều thường xuyên xảy ra nhờ COMINT. Susan cho David biết công việc của mình là nghiên cứu các mật mã, giải mã bằng phương pháp thủ công, rồi cung cấp cho NSA văn bản đã được bẻ mã. Điều này không hẳn là hoàn toàn đúng.
Susan cảm thấy tội lỗi khi nói dối tình yêu mới của mình, song cô không có quyền lựa chọn. Vài năm trước, điều đó từng là chính xác, nhưng nhiều thứ đã thay đổi tại NSA. Toàn bộ thế giới mật mã đã thay đổi. Những nhiệm vụ mới của Susan được xếp loại tuyệt mật, kể cả với nhiều người ở nấc thang quyền lực cao nhất.
“Mật mã,” Becker nói, hoàn toàn bị mê hoặc. “Làm sao em biết bắt đầu từ đâu? Ý anh là... làm thế nào em giải chúng được?”
Susan mỉm cười. “Anh phải rõ hơn ai hết chứ. Nó cũng giống như học một ngoại ngữ vậy. Thoạt đầu, văn bản trông như một mớ lủng củng, nhưng một khi nắm được các quy luật xác định cấu trúc của nó, anh sẽ có thể bắt đầu rút ra ý nghĩa.”
Becker gật đầu, không khỏi bị ấn tượng. Anh muốn biết nhiều hơn.
Dùng những chiếc khăn ăn tại Merlutti’s và các tờ chương trình hòa nhạc làm bảng đen, Susan đã dành cho chàng giáo sư hấp dẫn mới vào nghề của cô một khóa học nhỏ về mật mã. Cô bắt đầu với bảng mã hóa “hình vuông hoàn hảo” của Julius Caesar.
Caesar, cô giải thích, là người tạo mật mã đầu tiên trong lịch sử. Khi những liên lạc viên bắt đầu bị phục kích và các mật thư bị đánh cắp, ông đã tạo ra một phương thức sơ khai để mã hóa các mệnh lệnh này. Ông sắp xếp lại các chữ cái khiến thông điệp của mình trông có vẻ như vô nghĩa. Tất nhiên là không phải vậy. Mỗi thông điệp luôn có số lượng chữ cái là một số chính phương - 16, 25, 100 - tùy thuộc vào việc Caesar muốn truyền đạt nhiều tới mức nào. Ông bí mật báo với các sĩ quan của mình rằng khi một thông điệp chứa các chữ cái sắp xếp lộn xộn được gửi tới, họ cần ráp các chữ cái vào một hình vuông chia ô. Nếu họ làm vậy, rồi đọc từ trên xuống dưới theo hàng dọc, thông điệp bí mật sẽ hiện lên một cách kỳ diệu.
Theo thời gian, nguyên tắc sắp xếp ký tự của Caesar được những người khác áp dụng và cải tiến để trở nên khó bị bẻ mã hơn. Đỉnh cao của mã hóa không dùng máy vi tính diễn ra vào Thế chiến Thứ II. Phe Quốc xã đã chế tạo một chiếc máy mã hóa đáng kinh ngạc mang tên Enigma. Chiếc máy này trông giống một máy chữ kiểu cổ với các trục xoay bằng đồng thau được kết nối với nhau có thể xoay theo những cách thức phức tạp và đảo lộn văn bản gốc thành những dãy gồm các nhóm ký tự dường như vô nghĩa. Chỉ khi có trong tay một máy Enigma khác, được cài đặt chuẩn hóa theo cùng cách, người nhận mới có thể giải được mật mã.
Becker lắng nghe, ngẩn ngơ kinh ngạc. Người thầy đã trở thành cậu học trò.
Một buổi tối, trong một buổi diễn vở Kẹp Hạt Dẻ tại trường đại học, Susan dành cho David bản mật mã cơ bản đầu tiên để giải. Anh ngồi suốt thời gian nghỉ giữa giờ, bút trên tay, loay hoay với thông điệp gồm 11 chữ cái:
HL FKZC VD LDS
Cuối cùng, đúng lúc đèn vụt tắt để bắt đầu nửa buổi diễn thứ hai, anh tìm được câu trả lời. Để mã hóa, Susan chỉ đơn giản thay thế mỗi chữ cái trong lời nhắn của mình bằng chữ cái nằm ngay trước nó trong bảng chữ cái. Tất cả những gì Becker phải làm để giải mã là nhích thêm một vị trí theo trình tự bảng chữ cái - “A” trở thành “B”, “B” trở thành “C”, cứ như thế. Anh nhanh chóng đổi nốt những chữ cái còn lại. Anh chưa bao giờ hình dung là 4 âm tiết nhỏ lại có thể làm anh hạnh phúc đến thế:
IM GLAD WE MET
(Em mừng vì chúng ta đã gặp nhau)
Anh nhanh chóng nguệch ngoạc câu trả lời và đưa cho cô:
LD SNN
(Anh cũng thế)
Susan đọc nó và khuôn mặt cô sáng bừng lên.
Becker bật cười. Anh đã 35 tuổi và trái tim anh đang nhảy lùi ngược thời gian. Trong đời mình, anh chưa bao giờ bị một người phụ nữ thu hút đến thế. Những đường nét châu u tinh tế và đôi mắt nâu dịu dàng của cô làm anh nhớ tới quảng cáo của hãng mỹ phẩm Estée Lauder. Nếu Susan từng gầy gò, cao lêu đêu và vụng về khi cô còn vị thành niên, thì bây giờ chắc chắn đã khác. Trên con đường trưởng thành, cô trở nên mảnh mai duyên dáng như một cây liễu, cao ráo với khuôn ngực đầy đặn, săn chắc và phần bụng phẳng lì. David thường đùa rằng cô là người mẫu áo tắm đầu tiên anh từng gặp có bằng tiến sĩ về toán ứng dụng và lý thuyết số. Ngày tháng trôi qua, cả hai đều bắt đầu nhận ra rằng mình đã tìm thấy một tình yêu có thể kéo dài suốt đời.
Họ ở bên nhau được gần 2 năm thì bất ngờ David ngỏ lời cầu hôn cô. Chuyện đó xảy ra vào một dịp đi chơi cuối tuần tới rặng núi Smoky. Lúc ấy, họ đang nằm trên chiếc giường lớn có nóc màn ở Stone Manor. Anh không có cái nhẫn nào, anh chỉ cứ thế buột miệng nói ra. Đấy chính là điều cô yêu ở anh - anh thật ngẫu hứng. Cô hôn anh thật lâu và thật nồng nhiệt. Anh ôm cô vào vòng tay mình và cởi váy ngủ của cô.
“Anh sẽ coi đây là câu trả lời đồng ý,” anh nói, và họ có một đêm hạnh phúc bên lò sưởi ấm áp.
Buổi tối nhiệm màu ấy diễn ra từ 6 tháng trước - trước khi David bất ngờ được bổ nhiệm làm chủ nhiệm Bộ môn Ngôn ngữ Hiện đại. Mối quan hệ của họ đã trượt dốc kể từ đó.